Kiểu dáng (form): Là điều làm nên nhân tố quyết định của một mẫu thiết kế. Đó là diện mạo của một vật – hình dáng, tỷ lệ, sự cân bằng và hài hòa trong những thành phần cấu tạo. Để hiểu được kiểu dáng, ta cần phát huy khả năng nhận biết giá trị thật sự của các thành phần và mối quan hệ giữa chúng.
Đại học Mỹ thuật công nghiệp
Bất chấp việc đang có những biến dạng xuất hiện trên võng mạc mắt, các đối tượng luôn được nhận thức hầu như tương ứng với hình dạng và kích thước vật lý của chúng (nguyên tắc bất biến). Mặc dù đối với các mục đích thực tiễn, định thức này nhìn chung là đúng, tuy nhiên nó đẩy chúng ta vào thế nhầm lẫn. Kết luận này đang dựa vào một tiêu chí ngẫu nhiên và, suy ra, không đưa ra khả năng hiểu được diễn biến của hiện tượng này.
Điêu khắc là một trong những loại hình nghệ thuật phức tạp và thú vị nhất. Nó bao gồm đủ loại từ các tác phẩm chạm khắc đầy sức mạnh của Michelangelo cho đến các mặt nạ trang trí các lễ hội tôn giáo châu phi, và từ những bức tượng đá trang trí các thánh đường đến các vật di động kim loại đong đưa duyên dáng trong gió. Nó có thể được định nghĩa như là nghệ thuật của chạm trổ, nhào nặn, tạo hình, hoặc lắp ghép các vật liệu vào trong các hình dạng hay hình thể 3 chiều.
Những đồ gốm đầu tiên là loại gốm thô xương đất dầy, lẫn nhiều cát và các tạp chất, độ nung còn quá thấp. Có thể người Tiền sử muốn tạo dáng gốm đã vắt đất ép vào một khuôn đan bằng tre nứa hoặc cả sợi thừng chằng giữ. Khi đem nung khuôn đan bị cháy và đồ gốm chín để lại trên mình những vết đan. Và đó là hoa văn văn nan, loại hoa văn khởi đầu của đồ gốm.
Một trong những thứ đầu tiên, mang tính quyết định của tranh là nó nói lên điều gì. Hội họa được chia thành nhiều nhóm, hoặc nhiều loại, dựa vào những gì tranh thể hiện. Các loại tranh chính gồm tranh kể chuyện, chân dung, phong cảnh và tĩnh vật. Tất cả sẽ được giải thích chi tiết hơn ở các trang sau.
Trải qua nhiều thế kỷ, giới nghệ sĩ đã phát minh ra rất nhiều công cụ giúp họ thiết kế và lên bố cục, nhằm thể hiện những đối tượng ba chiều trên mặt phẳng hai chiều. Một số sử dụng các loại thước đo toán học để tính toán ảnh hưởng của phối cảnh và tỷ lệ cơ thể người. Số khác thử nghiệm những máy móc kỳ quái có kính, thấu kính hoặc gương giúp vẽ chính xác hơn.
Vải bố (canvas) chỉ là một trong rất nhiều loại phông nền (hoặc bề mặt) có thể được dùng trong hội họa, nhưng những tính chất riêng biệt của nó – tính linh động và độ phẳng – đã mang lại cho vải bố một vị trí đặc biệt trong nền nghệ thuật phương Tây. Vật liệu truyền thống này vẫn là phương tiện thiết yếu đối với các nghệ sĩ tiên phong thế kỷ XX.
Bản chất của một tác phẩm mĩ thuật được tóm gọn lại ở điều gì bộc lộ trong chính mô hình nhận thức thị giác. Sự biểu cảm, suy ra, là vốn có không những ở các cơ thể sống sở hữu ý thức. Vách đá, rặng liễu, hoàng hôn, tường nứt, lá rung, mạch nước, đường nét, màu sắc, vũ điệu trừu tượng trên màn ảnh rộng cũng sở hữu vô vàn biểu cảm như cơ thể người, và bởi vậy đã được các hoạ sỹ sử dụng thành công như nhau.
Người Sơ sử đã sử dụng hoa văn để trang trí trên nhiều vật dụng của nhiều loại chất liệu khác nhau như gỗ, tre nứa, vải, da thú, đồ gốm, đồ đồng. Đáng tiếc, do hư nát nên ngày nay chỉ còn lại hai loại duy nhất là đồ gốm và đồ đồng. Đồ gốm ngay từ thời Tiền sử đã thấy trang trí nhiều nhưng phần lớn là xuất phát từ kỹ thuật mà có như văn chải, vặn thừng…
























