Tuyến liên kết – Khung cơ bản là dạng kết cấu nhiều thanh (tuyến liên kết) kết nối với hệ khung gốc (khung cơ bản) để tạo ra một diện phẳng, diện cong hay một không gian nào đó.
Đại học Mỹ thuật công nghiệp
Khắc chạm (engraving) thuộc nhóm kỹ thuật khắc nét trực tiếp. Trong khắc chạm, người ta dùng mũi dùi có diết diện hình tam giác hay hình thoi để khắc các rãnh sâu nhằm tạo hình đường nét diễn tả. Các nét khắc có tính chất gọn, đánh sắc, và có tính điệu ít mềm mại bởi khi chế bản phải dùng lực mạnh để xúc, dũi bay đi phần kim loại tại đường khác.
Các tác phẩm đều được các họa sỹ sáng tác và bố cục nhằm mục đích phụ họa và lan tỏa ấn tượng tạo ra bưởi bất kỳ yếu tố riêng lẻ. Ví dụ, hình dáng tổng thể của bức tranh Liễu rụng bên núi xa (Hình 57) liên kết mật thiết với những đường cong và sắc thái tương phản nhẹ nhàng được sử dụng để truyền tải ý tưởng của họa sỹ về phong cảnh. Cũng như thế, bản vẽ của Picasso (Hình 58) có một mối quan hệ chặt chẽ với tờ giấy mà nó được vẽ trên đó.
Trong thể loại tranh in xuyên có hai kỹ thuật thể hiện là in trổ khuôn và in lưới (còn gọi là in lụa). Bản chất của kỹ thuật in trổ khuôn nằm ở chỗ phần in và không cần in phân biệt với nhau bởi phần hở và phần được che chắn nằm trên khuôn in. Khuôn in đó được trổ thủng hay cắt từ các vật liệu có dạng mỏng như giấy, nhựa, da thú, vải.. hoặc sử dụng vật thể có sẵn rồi phun màu, bôi màu cho nó đi qua các khoảng thủng, khoảng hở để tạo hình in trên một bề mặt chất liệu khác.
Khi bàn về màu sắc chúng ta thấy rằng mỗi sắc độ sẽ tương ứng với một khoảng cách nhất định, màu đỏ và các màu ấm trông có vẻ gần ta hơn là màu xanh da trời và màu lạnh. Trước đó, chúng ta cũng được biết rằng sự tương phản sáng tối có thể khơi gợi trong ta một số cảm giác về chiều sâu. Bức họa Phong cảnh mùa đông của họa sỹ Rembrandt (hình 32) còn cho ta thấy rằng đường nét cũng sở hữu khả năng tạo ấn tượng về chiều sâu. Một vài nét bút đậm, hướng nét vẽ theo đường chéo trong một phần của bức tranh cộng thêm vài nét vẽ mờ nhạt khác là tất cả những gì Rembrandt cần để mô tả khung cảnh đồng quê trải dài về phía xa. Rõ ràng là chúng ta rất nhạy cảm với chiều sâu, vì chỉ với sự kết hợp tối giản nhất của nét vẽ, màu sắc hay mảng sáng tối chúng ta đã có được ấn tượng về nó.
Tranh in phẳng được thực hiện bởi phương pháp in phẳng từ bản in bằng đá vôi hay các chất liệu phát sinh được phát triển về sau như đã trình bày ở phần trước. Phương pháp in phẳng được khởi đầu bằng kĩ thuật in đá do diễn viên, nhà viết kịch nghiệp dư người Đức - Alois Senefender tìm ra vào năm 1796.
Để hiểu cách xem một tác phẩm nghệ thuật, người nghệ sỹ có thể dựa vào từng yếu tố thị giác để truyền đạt ý tưởng cho chúng ta dưới dạng hình thái trực quan. Ngoài ra, việc tách biệt từng yếu tố giúp nhấn mạnh bản chất cụ thể và khả năng biểu đạt của chúng. Tuy nhiên, chúng ta phải công nhận phương pháp phân tích này đã chia tách các thành phần mà vốn dĩ là một thể thống nhất. Đường nét, màu sắc hoặc ánh sáng và bóng tối không tồn tại tách biệt với nhau trong một tác phẩm nghệ thuật.
Trường phái Ấn Tượng là một bước tiến quan trọng của hội họa trong việc đi sâu nghiên cứu không khí, ánh sáng và màu sắc thiên nhiên. Hầu hết các họa sĩ nghệ thuật Hàn Lâm vẽ tranh trong xưởng vẽ, thể hiện trong tranh ánh sáng của xưởng họa cho dù chủ thể trên tranh là sự việc xảy ra ngoài trời. Tuy nhiên màu sắc cảnh vật thiên nhiên luôn thay đổi từng giờ, từng ngày và từng mùa trong năm, và như thế việc vẽ phong cảnh trong nhà qua tưởng tượng, hồi ức là không chính xác.
Do bản chất đặc thù loại hình, thế giới đồ chơi là một sự pha trộn của nghệ thuật, khoa học, công nghệ. Từ những sản phẩm của nghệ thuật thiết kế, đồ chơi gỗ mang giá trị thẩm mỹ vào đời sống đồng thời có thể phát triển tương tác đến người chơi, giúp người ta nhận ra những lợi ích thiết yếu liên quan đến chơi, tạo ra giá trị vui tươi cho nhiều đối tượng, và nó có thể cung cấp cho họ các cơ hội để chơi bằng nhiều hình thức đa dạng.
Chế bản theo phương pháp loại trừ có nguyên tắc tạo hình đối lập với phương pháp chế bản bổ sung. Ở đây, các hình ảnh sẽ xuất hiện dần từ một nền mua in đã được phủ kín đều trên bề mặt bản in. Phương pháp này tạo ra hình thức tranh in độc bản dạng monotype mà Castiglione đặt nền móng. Từ một nền mẫu được phủ trên mặt bản in, họa sĩ lấy sáng dần để tạo hình ảnh và bố cục, nghĩa là loại trừ dần lượng màu đã có trên bản in.
Trong các thành tố tạo hình ba chiều, diện là quan trọng nhất, diện góp phần chính dựng nên không gian. Việc dùng diện để tạo tác không gian có thể phân làm hai dạng. Dùng một diện đơn tạo không gian và dùng nhiều đơn tạo không gian. Trong mỗi dạng thức lại có nhiều cách xử lý khác nhau nhằm mang lại sự đa dạng cho thể trạng, kiểu loại không gian.
Trong chế bản tranh in độc bản có 2 phương pháp chủ đạo là phương pháp chế bản bổ sung – thêm màu dần và phương pháp chế bản loại trừ - bớt màu dần. Trong thực tế, các phương pháp chế bản trên còn được gọi với các tên khác như: chế bản dương bản (positive method), chế bản âm bản (negative method); chế bản trên nền trắng (white method), chế bản trên nền đen (black maner). Các cách gọi khác nhau như vậy được sử dụng ở nhiều quốc gia khác nhau, bởi nhiều nghệ sỹ khác nhau, và đều phổ biến ở mức độ như nhau. Chúng chỉ là cách gọi khác nhau về một công việc mà thôi.
Càng chú trọng bề mặt của tác phẩm nghệ thuật, người nghệ sỹ sẽ càng nghĩ về nó như một vật thể hữu hình có thể sờ thấy được. Cách tư duy này được thể hiện rõ rang trong tranh của Klimt và cổ áo đính hạt của người Tlingit khi màu sơn hay hạt thủy tinh đóng vai trò quan trọng trong việc gây ấn tượng với chúng ta. Khi nhận thức được bề mặt sơn hay đính hạt, chúng ta sẽ cảm nhận rõ ràng hơn bức tranh và cổ áo là những đồ vật thực tế.
Xét trên bình diện khái quát, chân dung của một nền mỹ thuật thường đọng lại trên những thành tựu cụ thể, bao gồm kiến trúc, các tác phẩm hội họa, điêu khắc hay những hình tượng về mặt trang trí. Trong đó, yếu tố chất liệu cũng đóng một vai trò to lớn, phản ánh tư duy, sự dụng công và quá trình khám phá những sở trường sở đoản từng loại của người nghệ sĩ. Và tất nhiên, nó cũng gắn liền với những đề tài, kiểu thức, nơi mà chất liệu có khả năng diễn tả sinh động nhất những đường nét, bố cục, màu sắc của đề tài.Xét trên bình diện khái quát, chân dung của một nền mỹ thuật thường đọng lại trên những thành tựu cụ thể, bao gồm kiến trúc, các tác phẩm hội họa, điêu khắc hay những hình tượng về mặt trang trí. Trong đó, yếu tố chất liệu cũng đóng một vai trò to lớn, phản ánh tư duy, sự dụng công và quá trình khám phá những sở trường sở đoản từng loại của người nghệ sĩ. Và tất nhiên, nó cũng gắn liền với những đề tài, kiểu thức, nơi mà chất liệu có khả năng diễn tả sinh động nhất những đường nét, bố cục, màu sắc của đề tài.
Khoảng không gian khơi gợi từ hình dáng của chiếc cầu có thể được cảm nhận rõ ràng hơn, nếu chúng ta có thể trực tiếp trải nghiệm nó. Vì không giống các tác phẩm khác, khi chúng ta chỉ được nhìn từ bên ngoài, trong tác phẩm này chúng ta có thể thực sự thama nhập vào bên trong của đối tượng. Khi đi bộ lên và xuống dọc theo đoạn cầu, cảm giác mơ hồ, thoáng qua của không gian trở nên hiện hữu, đó là vì khái niệm chính xác về khoảng không trong bất kỳ bộ phận nào của cấu trúc tác phẩm đều như lẩn trốn chúng ta.