Đại học Mỹ thuật công nghiệp

Phối cảnh quy chiếu điểm

Phối cảnh hiển thị căn cứ từ các đường song song được quy tụ về các điểm biến. Thế nhưng hình dạng không có đường song song, có vẽ phối cảnh được không? Trong phối cảnh vẽ đường tròn thường dùng phương pháp vòng tròn tám điểm hoặc hai hình vuông.

Giao diện mặt tranh khuôn hình

Những ai làm việc với máy tính thì mọi khuôn hình dù có bất kỳ hình thù gì, cũng đều gọi chung là giao diện, nghĩa là một diện phẳng hoặc cong mà thị giác phải tiếp xúc, giao tiếp (nhìn thấy). Để có một giao diện đẹp, người thiết kế (design) cần biết thiết kế bố cục đẹp. Muốn thiết kế bố cục đẹp, cần biết những phương pháp cân bằng thị giác trên giao diện, trên mặt tranh hay trên khuôn hình. Còn “mặt tranh” là diện tích bề mặt 2D của bức tranh. Khái niệm mặt tranh quen thuộc và dễ hiểu như ta nói mặt bàn hay mặt ghế vậy. Nó chính là diện tích bề mặt 2D của bất kể bức tranh nào mà họa sỹ vẽ nên

So sánh quy chiếu điểm và cao độ

Để vẽ phối cảnh đoạn thẳng đứng AB, trước tên bằng phương pháp phối cảnh quy chiếu điểm, ta có phối cảnh của điểm gốc đoạn thẳng là A1. AB là độ cao của đoạn thẳng đứng. Một đường thẳng nằm ngang song song đường quy chiếu gốc đi qua B (đỉnh của AB) được gọi là đường quy chiếu cao độ.

 Kỹ năng vẽ chi tiết nhân vật (Phần 2)

Trên bức phác thảo, dùng nước để làm ẩm bề mặt bức tranh, tô phần nền bằng màu hồng, cam, vàng với các sắc độ đậm nhạt như hình bên, chỉ để lại phần mặt, cổ và hoa. Để khắc họa rõ nét ngũ quan của nhân vật, cần chọn tông màu nâu trầm và có vẻ u hoài, thể hiện nét mong manh, nhỏ nhắn của mỹ nữ, tiết chế những màu sắc gợi cảm giác “trong trẻo”, tươi sáng như những bức tranh thiếu nữ thường thấy. Vẻ trưởng thành cùng nét buồn bã của mỹ nữ được thể hiện từ kiểu tóc ngắn, cách trang điểm và đôi mắt màu nâu mang nhiều tâm sự.

Bố cục đóng hay mở

Cách đóng bố cục khi bố cục trên đường xiên chéo: Theo L’Art de la composition et du cadrage (1992) thì bố cục đóng là những yếu tố hình hay nét sắc độ mạnh đủ gây chú ý (như ngầm cảnh báo) cho thị giác dừng lại ở đó, không nhìn vượt xa hơn. Bởi nếu nhìn vượt ra xa hơn, chủ đề cần nhấn mạnh sẽ bị giảm quan tâm. Những điểm nhấn như mốc giới chặn thị giác như thế được coi như chìa khóa đóng bố cục kín lại để người xem tranh tập trung nhiều hơn vào nhân vật chính. Xem sơ đồ khái quát bố cục Hình H5-1, hướng của đường chéo đã bị chặn lại (đóng lại) bởi nét ngang trên và dưới.

Cảm nhận thị giác trong nhận thức TG

Sau khi mắt tiếp nhận hình ảnh, những chu trình thuộc thế hệ thần kinh dẫn thông tin tới trung tâm trí não, tại đây có sự phân loại và định dạng hình ảnh, liên hệ so sánh cực nhanh với tất cả những thông tin về những vật thể mà trước đó người quan sát đã gặp, đã tiếp xúc, đã nhận thức và đã có kinh nghiệm để hệ thống hóa thông tin mới nhận. Nếu thông tin về vật thể không giống những gì đã biết trước đó, người quan sát cần thêm thời gian xem xét lại để định dạng, gọi tên, miêu tả đối tượng.

Các trường phái nhiếp ảnh

Có một điều quan trọng với nhiếp ảnh nghệ thuật, tuy đã tách riêng khỏi hội họa và phát triển rộng lớn toàn cầu, từ ảnh quảng cáo thương mại, ảnh nano đến ảnh các thiên hà xa thẳm trong vũ trụ, đều là công nghệ ảnh. Nhưng nhiếp ảnh nghệ thuật có hai cái chung với hội họa mà không thể riêng ra được đó là cùng đi tìm cái đẹp và cùng là nghệ thuật thị giác. Vậy nên với riêng các nhiếp ảnh gia nghệ thuật có tâm hồn riêng của nhiếp ảnh vẫn buộc phải có con mắt thẩm mỹ của hội họa.

Đồ họa cổ Việt Nam

Gỗ, dao khắc và phương pháp dùng dao là yếu tố kĩ thuật đầu tiên. Các phường thợ Việt Nam thường dùng các loại gỗ thị, gỗ vàng tâm và gỗ thừng mực. Gỗ thị thớ đa chiều có thể khắc nên các ván nét tinh vi, mãnh nhỏ. Gỗ mực nhẹ, nạc và mềm rất dễ khắc, nhưng độ bền không cao. Gỗ vàng tâm tuy không rắn chắc bằng gỗ thị nhưng rất nạc thớ, cũng thường được dùng làm hoành phi câu đối trong đền chùa. Dòng tranh Đông Hồ dường như là trường hợp duy nhất dùng hai loại ván nét in nghiêng và in mầu. Ván in nét thường khắc bằng gỗ thị, ván in mầu thường khắc bằng gỗ vàng tâm và gỗ mực. Ván in ngày xưa thường được dùng luân niên, nên gỗ phải tốt bền và ổn định nét qua thời gian dài sử dụng.

Lịch sử đồ họa Việt Nam

Đồ họa ấn loát ra đời trong một xã hội phát triển, với nhu cầu phổ biến kiến thức, ít nhất trong giai tầng trí thức, hay một nhóm tri thức nào đó. Sách chép tay, tranh vẽ độc bản, văn tự khắc trên bia đá đương nhiên là những hình thái ban đầu, rất khó lưu hành rộng rãi. Người ta có thể mượn sách nhau chép lại thành nhiều bản. Số lượng không thể nhiều, với sự đòi hỏi thời gian và công sức quá lớn để chép lại một quyển sách. Vả lại mỗi lần chép sách là một lần sai lệch với nguyên bản, cho nên người xưa nói: “tam sao thất bản” là vậy. Văn tự khắc trên bia có thể in, dập lại nhưng lượng từ trên một bia đá không nhiều, cách làm bản vỗ cũng không phổ biến.

MT hai chiều, ba chiều và môi trường

Mỹ thuật ba chiều là tên gọi chung của tất cả các tác phẩm, sản phẩm thuộc lĩnh vực mỹ thuật tạo hình và mỹ thuật ứng dụng (nghệ thuật trang trí, nghệ thuật thủ công, nghệ thuật thiết kế) có hình dáng thuộc hình khối ba chiều. Như vậy một tác phẩm, sản phẩm thuộc loại này được cho là đẹp thì phải đạt yêu cầu thẩm mỹ được đánh giá ở mọi góc nhìn.

Các loại hình và thể loại đồ họa

Sự phân chia tranh mang tính chất loại hình với ý nghĩa là sự phân chia theo chức năng xã hội của nghệ thuật. Ở phương diện thể loại, cách quan niệm của người Việt không thật rõ ràng, nhưng ở phương diện loại hình lại được hiểu rất chân xác. Ví dụ người Việt cổ không có mấy khái niệm về tranh tĩnh vật, nhưng tranh “Ngũ quả”, tranh “Cổ đồ” (tranh vẽ về đồ cổ quý hiếm, bao gồm cả vẽ hoa lá với đồ cổ). cũng có thể coi là tranh tĩnh vật nhưng để thờ cúng. Nếu “văn” để tải đạo, “nhạc” để hòa hợp lòng người, thì “họa” để nêu gương người trước, răn dạy kẻ sau. Khái niệm “tượng” dùng cả trong hội họa lẫn điêu khắc để chỉ hình ảnh thay thế cho sự tự nhiên và con người, đặc biệt thay thế cho thần linh. Vì vậy nó vừa là khái niệm hữu hình, vừa là khái niệm vô hình.

Phân tích tác phẩm nghệ thuật (Phần 1)

Còn đối với các tác phẩm mỹ thuật tạo hình là các yêu cầu chủ yếu là cách nhìn, là tâm tư tình cảm của nghệ sỹ; là cái riêng, sự độc đáo, cái mới, giá trị sáng tạo tài năng của “người mẹ” (nghệ sỹ) chứ không phải của bố. Cuối cùng là “cái hồn” là sự sinh động, sự sống ẩn tàng bên trong tác phẩm cũng do tài năng, cảm xúc của “người mẹ”. Đứa con sẽ giống mẹ hay bố còn tùy vào “bà mẹ - chủ thể sáng tạo” đặt vai trò, vị trí, ý nghĩa của “ông bố” như thế nào so với chính “bà ta” và đứa con. Khái niệm “giống bố, giống cha” trong kiến trúc và mỹ thuật ứng dụng được đặt nặng hơn mỹ thuật tạo hình.

Phân tích tác phẩm nghệ thuật (Phần 2)

Tác phẩm nghệ thuật là con đẻ của chủ thể sáng tạo. Nó phản ánh những ước mơ, tài năng của mẹ nó: tác giả. Cho nên người ta gọi “tranh là người”. Trên thực tế thì có rất nhiều động cơ thôi thúc người nghệ sỹ nghiên cứu, thực hành sáng tạo, tạo nên tác phẩm.

Hình mẫu và ý tưởng của đồ họa

Từ hình khắc tranh bản kinh đến hình khắc tranh dân gian đều có một số hệ thống hình mẫu nhất định mà ý nghĩa có tính phổ cập để dân chúng nhìn vào có thể biết ngay ý nghĩa của bức tranh là gì. Có thể dùng khái niệm “motif” hay “hình mẫu” để xem xét tính thống nhất và loại biệt trong các bức đồ họa cổ với ý nghĩa đơn lẻ và kết hợp của chúng. Song ngoài hệ thống hình mẫu dễ hiểu, ngữ nghĩa tương đối ổn định, còn một hệ thống hình mẫu khác không nhằm để hiểu, có tính bí hiểm, được dùng trong các hình khắc bùa chú, trong nghi lễ có tính phù thủy dành riêng cho các thầy pháp cao tay. Dù là hình mẫu có tính phổ cập đến các hình mẫu có tính bí hiểm thì hình dạng và ngữ nghĩa của chúng được khái quát, trừu tượng hóa dần dần trong xã hội phong kiến, không chỉ dùng trong đồ họa mà dùng phổ biến trong điêu khắc và nghệ thuật trang trí, ứng dụng.

NT Đồ họa (Tranh Xã hội và Tôn giáo)

Có lẽ kĩ thuật in được nhận thức từ việc in hoa trên gốm có thừ thời tiền sử, sau đó in hoa văn trên vải. Những dấu ấn in hoa văn trên vải phát hiện từ nền văn hóa Hoa Lộc (thời kì đồ đá mới cách đây 6.000 năm). Sau cùng là in bằng khuôn gỗ xuất hiện trong xã hội phong kiến.