Typography là vẻ bề ngoài của câu chữ: Với nội dung là cố định và không đổi. Việc chọn bề ngoài và kiểu dáng cho chữ là mục tiêu của việc nghiên cứu Typography. Tương tự như chọn bạn một style ăn mặc nào nói lên con người bạn, thì việc chọn kiểu chữ cũng tương tự như vậy, Typography giúp chúng ta khẳng định những gì chúng ta muốn nói – mà không cần nói thành lời.
Đại học Mỹ thuật công nghiệp
Nghệ thuật Trúc chỉ là một loại hình nghệ thuật mới của Huế, Việt Nam do Họa sỹ Phan Hải Bằng, giảng viên ĐH Nghệ thuật, ĐH Huế cùng cộng sự nghiên cứu, sáng tạo nên. Bằng cách kết hợp nghề giấy thủ công truyền thống và nguyên lý của nghệ thuật Đồ họa; thuật ngữ kỹ thuật “trucchigraphy” đã ra đời và được sử dụng chính cho nghệ thuật Trúc Chỉ.
Ý tưởng về một thiên thần trông như thế nào đã xuất hiện vào thế kỷ thứ 4, thế nhưng sự tồn tại của các nhân vật giống như thiên thần trong nghệ thuật đã được tìm thấy từ hàng ngàn năm. Vậy, hãy ngược theo dòng lịch sử cùng chúng tôi khám phá sự hình thành và nguồn cảm hứng để người xưa tạo dựng nên hình tượng bí ẩn này trong các tác phẩm nghệ thuật nhé.
Từ đối xứng (symmetry) có nguồn gốc từ xa xưa, xuất phát từ các từ sym và metria trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “có cùng độ đo”. Khi người Hy Lạp gắn cho một tác phẩm nghệ thuật hay một thiết kế kiến trúc cái nhãn đối xứng là khi họ muốn nói rằng người ta có thể nhận dạng được một mẩu nhỏ nào đó của tác phẩm nghệ thuật ấy, sao cho kích thwocs của tất cả các phần khác đều chứa mẩu đó với một số lần rất chính xác (ác phần này được gọi là “thông ước” với nhau).
Bố cục của ảnh màu có đặc thù riêng, dĩ nhiên, là do các vấn đề phát sinh do màu sắc. Trước tiên, đó là vấn đề nhận thức đi kèm cảm xúc đối với màu sắc, sự biểu cảm của chúng, cũng như vấn đề kết hợp màu sắc trong khung hình. Đó là các mối quan hệ màu sắc của các hình thù và màu sắc của phông nền. Hoặc là, các mối quan hệ màu sắc của hai (hay vài) hình thù trong khung hình.
Lớp sơn ultramarine được sơn trên thân kim của tượng Phật có độ bão hòa cao hơn và màu đậm hơn một chút, có thể tạo nên sự tương phản với màu kim. Vào thời cổ đại, để có thể biểu hiện được sắc lam trên thân kim của Thần, người ta đã chế tạo ra sắc liệu lý tưởng bằng cách nghiền mài và thuần chế thanh kim thạch. Nhưng vì việc sử dụng đá quý làm nhan liệu rất đắt tiền, nên nó phổ biến hơn ở các văn vật tượng Phật quy mô vừa và nhỏ ở những địa khu chịu ảnh hưởng lớn của Phật giáo như Tây Vực.
Trong thế giới của cơ thể, chúng ta gọi trọng lượng là sức mạnh của lực hấp dẫn kéo vật thể xuống. Một lực kéo xuống tương tự có thể được quan sát thấy trong các đối tượng tượng hình và điêu khắc, nhưng trọng lượng thị giác cũng tự tác động theo các hướng khác nữa. Ví dụ, khi nhìn vào các đối tượng trong bức tranh, trọng lượng của chúng dường như tạo ra lực căng dọc theo trục kết nối chúng với mắt của người quan sát, và không dễ dàng để biết liệu chúng sẽ rút lui hay bị thu hút về phía người đang nhìn. Tất cả những gì chúng ta có thể nói là trọng lượng luôn là một động lực nhưng sự căng thẳng không nhất thiết phải được định hướng theo một hướng trong bức tranh phẳng.
Đồng gắn bó với nhân dân ta trong suốt trường kỳ lịch sử. Nó là chất kim loại quý được lấy làm bản vị của các giá trị trao đổi từ xa xưa cho đến tận gần đây. Được xem là kim loại thiêng để đúc tượng thờ và nhiều đồ tế khí. Tuy nhiên, cũng lại gắn với sinh hoạt đời thường của mọi người. Dù sử dụng dưới góc độ nào, thì đồng thường được pha chế thành thỏi rồi gò dát, có khi sau đó còn gia công khắc rạch thêm. Với quy trình đúc, nghệ thuật điêu khắc đồng khá phức tạp song có thể vượt lên những phá hoại của thời gian, là chất liệu đích thực của điêu khắc.
Vào cuối thế kỷ 19, rất lâu trước khi Einstein xem xét lại các ý niệm của chúng ta về mối quan hệ giữa vật chất và không gian thì các nghệ sỹ hiện đại, bằng một cách nào đó cảm nhận được ảo giác về lực hấp dẫn, đã bắt đầu nghiên cứu các chủ đề về phản hấp dẫn. Khi nhìn lại, chúng ta có thể công nhận rằng những ý tưởng phi chính thống đã thấp thoáng trong hội họa và điêu khắc thời ấy chính là những lời tiên báo về sự thay đổi.
Màu sắc là sự nhận thức chủ quan trong bộ não của chúng ta về một đặc tính khách quan của những bước sóng ánh sáng nhất định. Mỗi một cái trong cặp phương diện này là không thể tách rời khỏi cái kia. Tính bổ sung này cũng chính là mối nối giữa phong cách của trường phái Dã thú với thuyết tương đối khoa học. Xét cho cùng, màu sắc chính là ánh sáng; và mặc dù nó tồn tại ở một vị trí nhất định trong phổ điện từ, nhưng để cái năng lượng màu sắc của nó có thể được biết đến, nó vẫn đòi hỏi phải có một bộ não biết nhận thức qua con mắt của các tế bào hình nón.










-180x180.webp)














