Đại học Mỹ thuật công nghiệp

Không gian trong tranh khắc kim loại VN

Tranh khắc kim loại Việt Nam có nhiều tác phẩm thể hiện sự kỳ công về ngôn ngữ tạo hình. Ở đó là sự công phu tỉ mỉ trong cách xử lý hiệu quả không gian tạo hình. Các họa sĩ đồ họa kết hợp hài hòa các yếu tố đường nét, màu sắc, hình mảng, bút pháp, chất liệu tạo nên không gian trong tranh khắc kim loại Việt Nam. Qua đánh giá về yếu tố không gian trong các tác phẩm tranh khắc kim loại ở các chất liệu đồng, kẽm, inox, có thể thấy, không gian là một trong những yếu tố tạo hình quan trọng của tác phẩm tranh khắc kim loại, mang lại hiệu quả nghệ thuật thị giác mới, thể hiện sự tìm tòi sáng tạo của các họa sĩ đồ họa Việt Nam.

Tính biểu cảm của kiến trúc bảo tàng

Bảo tàng tưởng niệm là một loại công trình triển lãm đặc biệt nhấn mạnh và khả năng tác động vào cảm xúc của người tham quan để giúp con người hồi tưởng lại quá khứ. Chủ đề của bảo tàng tưởng niệm phải rõ ràng và có tác động mạnh hơn các công trình khác và đưa đẩy cảm xúc của khách tham quan là yếu tố trọng yếu của thiết kế.

Mỹ thuật của người Việt

Mỹ thuật nguyên thủy Việt Nam hình thành với tư cách là một hoạt động thực tiễn gắn liền với chế tác đồ ứng dụng và các biểu tượng tôn giáo mông muội. Ở phương diện đồ ứng dụng phục vụ đời sống săn bắn, hái lượm có một bước chuyển dài từ công cụ tiện dùng đến công cụ vừa tiện dùng vừa đẹp, tiến tới thoát ly hoàn toàn công năng biến đồ ứng dụng thành vật trang trí thuần túy. Tư duy huyền thoại nguyên thủy tìm cách giải thích những ước muốn tìm hiểu tự nhiên đã dẫn đến các biểu tượng nhằm cụ thể hóa tưởng tượng về thế giới tự nhiên đầy quyền lực.

Đặc và rỗng trong kiến trúc

Việc ngắm nhìn đòi hỏi người quan sát phải có một số hoạt động nhất định. Sẽ là không đủ nếu để hình ảnh tự hình thành một cách thụ động trên võng mạc mắt. Võng mạc đóng vai trò như một bức phông với hàng loạt hình ảnh liên tục xuất hiện trên đó, nhưng bộ não đứng đằng sau chỉ nhận thức được một số rất ít trong số các hình ảnh đó. Mặt khác, chỉ cần một ấn tượng hình ảnh mờ nhạt, một chi tiết bé xíu cũng là đủ để chúng ta nghĩ rằng đã nhìn thấy một vật.

Chuẩn tắc và tỷ lệ tạo tượng

Các chuẩn tắc tỷ lệ được nhắc đến trong bài này không chỉ đơn thuần dùng riêng cho việc tạc tượng, mà còn dùng để nói về việc vẽ họa tượng Phật nói chung (tranh vẽ Phật). Do đó trong từng đoạn kinh mới có sự phân biệt giữa họa tượng và ngẫu tượng (thai ngẫu), mặc dầu nguyên tắc, số đo thì là một. Riêng thai ngẫu tức là làm tượng tròn có khối, có không gian thì các tỷ lệ đều được cộng thêm vào nửa ngón. Trong các chỉ dẫn, phân tích các chi tiết từ mặt tượng, đến thân thể, chân tay, nếu đạc họa thì theo một lối, nếu là tượng đều được tính đến cả độ lồi lõm.

Các kiểu thiết kế trong bố cục Layout

Bố cục dạng khung thường đdược dùng nhiều trên các báo hơn là trên tạp chí, giúp tách biệt mẫu quảng cáo khỏ rừng các quảng cáo khác. Theo dạng này các nhà thiết kế thường đóng khung phần trình bày hình ảnh theo một khung hình quả thận, phần trống còn lại dành cho phần tiêu đề và lời quảng cáo. Một biến thể khác là dành toàn bộ phạm vi cho phép để trình bày phần hình ảnh, phần chữ thường được in đen trên phần hình màu nhạt hoặc in trắng trên nền hình màu đậm.

Mỹ thuật sân khấu thời cổ đại

Những động tác của người đi săn, người hái lượm, những động tác tự vệ và tấn công, những hiện tượng tự nhiên được nhân cách hóa, những phương pháp đấu tranh, chống đỡ, thậm chí thuần phục thiên nhiên.. được diễn ra, là mầm mống của diễn xuất sân khấu. Sau một đợt lao động, đấu tranh, nhất là những khi đạt được thắng lợi, bầy người tập trung đốt lửa, nướng con thú, thị uy đối với tù binh… vừa để ăn mừng, vừa để diễn tập lại những bài học lao động, chiến đấu. Họ reo hò, buồn rầu, đau khổ được thể hiện, thì đây lại là những hình thức đầu tiên của kịch biểu lộ tình cảm.

Minh họa sách tạo tượng và tượng Phật

Có thể nói minh họa sách là một trong những phần khá quan trọng các sách tạo tác tượng Phật. Nếu công thức được diễn giải bằng lời, ít nhiều khó hiểu trừu tượng, thì hình vẽ sẽ giúp phân tích kỹ hơn, đơn giản hơn cho việc tạo tác tượng Phật. Trong bài này chỉ chú trọng đến các bức tranh minh họa Phật giáo để nói về việc điêu khắc tượng Phật thì thấy rằng có hai loại tranh minh họa. Một là minh họa tỷ lệ tượng, hai là minh họa hình ảnh tượng Phật.

Ngôn ngữ tạo hình trong KT (Phần 1)

Chúng ta khái niệm “yếu tố tạo hình” như những yếu tố cơ bản, từ đó tạo ra không gian 3 chiều. Lúc ánh sáng chiếu vào không gian này tạo nên hình thái về sự thay đổi của màu sắc, tương phản, xù xì... Người ta chia các yếu tố này thành 4 loại chính: điểm, đường, diện, khối. Ngoài điểm, sự phối kết quan hệ giữa 3 loại kia sẽ tạo nên không gian.

Mỹ thuật SK thời Trung – Cận đại (Phần 1)

Đã có những hình thức múa hát đeo mặt nạ. Trong dân gian có một nghệ sỹ múa hát nổi tiếng được vua Đinh phong chức “Ưu bà”. Đó là : “Bà Huyền nữ Phạm Thị Trân, sinh năm 926, người Hồng Châu phong tư mỹ lệ, giỏi về ca hát, múa và làm trò, nổi tiếng trong đám hý phường. Khoảng năm Thái Bình (970 – 980), quan cai hạt đưa tiến vào cung, bà được phong chức Ưu bà chuyên dạy (múa hát) trong quân ngũ”. Thời gian này, vua Đinh đang xây dựng đội quân Thập đạo để động viên tinh thần các quân sĩ ngày đêm rèn luyện võ nghệ, sẵn sàng chiến đấu chống giặc, họ cũng cần có những giờ phút thư giãn giải trí, vì vậy bà Phạm Thị Trân đã trở thành Ưu bà chuyên dạy biểu diễn nghệ thuật trong quân đội.

Ngôn ngữ tạo hình trong KT (Phần 2)

Điểm có thể được hình thành do phép chiếu một đường thẳng, một đoạn thẳng theo tuyến tính. Ví dụ như: cột được đặt trên mặt bằng như một điểm và giữ những đặc trưng thị giác như là một điểm. Như vậy, tâm vòng tròn, tâm đáy khối trụ, tâm của khối cầu cũng là những hình thức điểm mà ta cần phải quan tâm trong thiết kế tạo hình (Hình 2.12b, c). Đối với khái niệm hai điểm mặc dù chỉ xác định một độ dài hữu hạn, nó cần được xem như là một trường đoạn của một trục nối liền vô hạn.

Các loại hình của MT sân khấu (Phần 1)

Mỹ thuật sân khấu bao gồm: bối cảnh trang trí, trang phục, ánh sáng, đạo cụ, hóa trang… Nhìn chung, nghệ thuật biểu diễn sân khấu ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, dù là loại hình nghệ thuật nào của dân gian, truyền thống hay hiện đại thì cũng đều cần có sự góp mặt của yếu tố mỹ thuật. Không những nó phục vụ cho quá trình diễn xuất, gắn với ý tưởng biểu hiện của đạo diễn, mà còn tham gia vào việc tạo hình trên sân khấu, với cái đẹp trong cấu tứ từ sự kết hợp của hội họa và điêu khắc… cùng nhiều phương thức thể hiện.

Ngôn ngữ tạo hình trong KT (Phần 3)

Một đường trải dài sẽ tạo thành một diện. Diện có hai chiều dài và rộng nhưng xét về tương đối không có chiều sâu. Còn đường chu vi và đường bao là hình. Những đặc điểm đặc trưng của diện là tính chất trong diện tích bề mặt của diện như: độ nhẵn bóng hay sần sùi và màu sắc… mà mang lại biểu cảm cho tạo hình. Hình có đặc trưng từ những đường biên khép kín tạo nên hình, nó được nhìn từ chính diện hoặc trong phối cảnh. Bao gồm góc và độ cong hay tính chất biến đổi của đường bao.

Các loại hình của MT sân khấu (Phần 2)

Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian lâu đời nhất của nước ta, trong quá trình hình thành và phát triển, không ảnh hưởng yếu tố ngoại lai. Nghệ thuật chèo được kết tinh trên cơ sở trò nhại, múa và hát, phổ biến ở đồng bằng miền Bắc nước ta, do những người nông dân trình diễn; đối tượng người xem cũng là tầng lớp bình dân. Và như chúng ta đã biết, chèo cũng là sân khấu tự sựu, tả thần, ước lệ cùng loại hình nghệ thuật sân khấu ca kịch.

Các nghi thức Phật giáo trong tạc tượng

Có thể thấy việc tạo tác nên một pho tượng trong các ngôi chùa Việt là rất công phu trên nhiều khía cạnh khác nhau về mặt kỹ thuật và tỷ lệ. Nhưng pho tượng sẽ chỉ là pho tượng nếu chỉ tạc khắc, đúc, đắp một cách thông thường. Để tạo tác nên một pho tượng Phật và trao cho pho tượng đó một sứ mệnh tâm linh, thì trước và sau khi tạc khắc tượng Phật, người ta thường tiến hành một số nghi lễ.