Chất để hom là hỗn hợp đất phù sa mịn trộn sơn sống được quết đều lên khắp tượng cho khít các vết ghép ở tượng gỗ, vết rạn ở tượng đất. Đối với tượng đất phải để thật khô rồi quết sơn sống lên pho tượng thật nhiều lớp để các lớp sơn hom này có thể ngấm sâu hơn, gia cố lại toàn bộ pho tượng. Sau đó ủ tượng cho khô sơn ở mỗi lớp quết.
Đại học Mỹ thuật công nghiệp
Việc tạo tác tượng trong một điện Phật nói chung thường có những nguyên tắc nhất định. Không phải tùy tiện muốn làm lớn hay nhỏ, mà người thợ phải tính đến sự tương quan lẫn nhau giữa các pho và tầm quan trọng của tượng đó trong điện Phật để có được một kích thước nhất định. Thường thì một điện Phật chùa Việt được làm trong rất nhiều năm, thậm chí nhiều thế kỷ, nhưng vẫn thống nhất bởi sự tương quan trên.
Ở các tượng Phật Việt, tạo hình phần hậu tượng hầu như ít được chú trọng bởi lẽ ngôi chùa Việt đặc biệt đông đảo. Do vậy nếu các tượng đều được tác phần hào quang phía sau thì sẽ che mất các tượng đặt lớp sau. Do đó chỉ có một số pho được tạc khắc hào quang. Mà thực tế, vành hào quang này không chỉ là hào quang mà nó chính là vành tay của tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn. Hình thức vành tay phía sau lưng tượng Quan Âm cũng chỉ sau TK 17 mới trở nên phổ biến, còn các tượng Quan Âm TK 16 hoàn toàn không có.
Các tác phẩm nghệ thuật sắp đặt thường được tạo dựng trong những bối cảnh văn hóa gián đoạn, thương liên quan hoặc do cảm hứng từ những môi trường trực tiếp của chúng, chúng hướng nghệ thuạt trở thành một đối thoại với những bối cảnh lịch sử, xã hội và chất liệu thông dụng. Người ta có thể nghĩ về các tác phẩm sắp đặt như những nơi cư trú, sử dụng công nghệ và thường liên quan tới kiến trúc, các tác phẩm sắp đặt dò xét những điểm giao cắt thuộc thị giác, tri giác và bối cảnh của những vấn đề, đồ vật, không gian và chất liệu. Bởi sự phong phú vô hạn đối với chất liệu và địa điểm sắp đặt, trong và ngoài những bối cảnh nghệ thuật, sắp đặt trở thành một thể loại hữu hiệu và ngày càng phổ biến đối với việc biểu hiện những giá trị thẩm mỹ, mục đích chính trị và xã hội của nghệ sỹ.
Trong quá trình tập quan sát và rèn kỹ năng vẽ, thì hoạt động vẽ tả thực ngoài trời sẽ giúp ích cho ta rất nhiều. Thao tác này có thể giúp bạn hiểu rõ hơn về dáng vẻ, tư thế của đối tượng bạn muốn vẽ trong môi trường tự nhiên, cũng như trạng thái nguyên bản của chúng trong hệ sinh thái, thậm chí ta có thể tìm thấy nguồn cảm hứng sáng tác trong đó. Nếu chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố như thời tiết… nên không thể ra ngoài vẽ cảnh thực, bạn vẫn có thể lựa chọn luyện tập vẽ tĩnh vật trong nhà.
Tranh khắc kim loại Việt Nam có nhiều tác phẩm thể hiện sự kỳ công về ngôn ngữ tạo hình. Ở đó là sự công phu tỉ mỉ trong cách xử lý hiệu quả không gian tạo hình. Các họa sĩ đồ họa kết hợp hài hòa các yếu tố đường nét, màu sắc, hình mảng, bút pháp, chất liệu tạo nên không gian trong tranh khắc kim loại Việt Nam. Qua đánh giá về yếu tố không gian trong các tác phẩm tranh khắc kim loại ở các chất liệu đồng, kẽm, inox, có thể thấy, không gian là một trong những yếu tố tạo hình quan trọng của tác phẩm tranh khắc kim loại, mang lại hiệu quả nghệ thuật thị giác mới, thể hiện sự tìm tòi sáng tạo của các họa sĩ đồ họa Việt Nam.
Bảo tàng tưởng niệm là một loại công trình triển lãm đặc biệt nhấn mạnh và khả năng tác động vào cảm xúc của người tham quan để giúp con người hồi tưởng lại quá khứ. Chủ đề của bảo tàng tưởng niệm phải rõ ràng và có tác động mạnh hơn các công trình khác và đưa đẩy cảm xúc của khách tham quan là yếu tố trọng yếu của thiết kế.
Mỹ thuật nguyên thủy Việt Nam hình thành với tư cách là một hoạt động thực tiễn gắn liền với chế tác đồ ứng dụng và các biểu tượng tôn giáo mông muội. Ở phương diện đồ ứng dụng phục vụ đời sống săn bắn, hái lượm có một bước chuyển dài từ công cụ tiện dùng đến công cụ vừa tiện dùng vừa đẹp, tiến tới thoát ly hoàn toàn công năng biến đồ ứng dụng thành vật trang trí thuần túy. Tư duy huyền thoại nguyên thủy tìm cách giải thích những ước muốn tìm hiểu tự nhiên đã dẫn đến các biểu tượng nhằm cụ thể hóa tưởng tượng về thế giới tự nhiên đầy quyền lực.
Việc ngắm nhìn đòi hỏi người quan sát phải có một số hoạt động nhất định. Sẽ là không đủ nếu để hình ảnh tự hình thành một cách thụ động trên võng mạc mắt. Võng mạc đóng vai trò như một bức phông với hàng loạt hình ảnh liên tục xuất hiện trên đó, nhưng bộ não đứng đằng sau chỉ nhận thức được một số rất ít trong số các hình ảnh đó. Mặt khác, chỉ cần một ấn tượng hình ảnh mờ nhạt, một chi tiết bé xíu cũng là đủ để chúng ta nghĩ rằng đã nhìn thấy một vật.
Các chuẩn tắc tỷ lệ được nhắc đến trong bài này không chỉ đơn thuần dùng riêng cho việc tạc tượng, mà còn dùng để nói về việc vẽ họa tượng Phật nói chung (tranh vẽ Phật). Do đó trong từng đoạn kinh mới có sự phân biệt giữa họa tượng và ngẫu tượng (thai ngẫu), mặc dầu nguyên tắc, số đo thì là một. Riêng thai ngẫu tức là làm tượng tròn có khối, có không gian thì các tỷ lệ đều được cộng thêm vào nửa ngón. Trong các chỉ dẫn, phân tích các chi tiết từ mặt tượng, đến thân thể, chân tay, nếu đạc họa thì theo một lối, nếu là tượng đều được tính đến cả độ lồi lõm.
Bố cục dạng khung thường đdược dùng nhiều trên các báo hơn là trên tạp chí, giúp tách biệt mẫu quảng cáo khỏ rừng các quảng cáo khác. Theo dạng này các nhà thiết kế thường đóng khung phần trình bày hình ảnh theo một khung hình quả thận, phần trống còn lại dành cho phần tiêu đề và lời quảng cáo. Một biến thể khác là dành toàn bộ phạm vi cho phép để trình bày phần hình ảnh, phần chữ thường được in đen trên phần hình màu nhạt hoặc in trắng trên nền hình màu đậm.
Những động tác của người đi săn, người hái lượm, những động tác tự vệ và tấn công, những hiện tượng tự nhiên được nhân cách hóa, những phương pháp đấu tranh, chống đỡ, thậm chí thuần phục thiên nhiên.. được diễn ra, là mầm mống của diễn xuất sân khấu. Sau một đợt lao động, đấu tranh, nhất là những khi đạt được thắng lợi, bầy người tập trung đốt lửa, nướng con thú, thị uy đối với tù binh… vừa để ăn mừng, vừa để diễn tập lại những bài học lao động, chiến đấu. Họ reo hò, buồn rầu, đau khổ được thể hiện, thì đây lại là những hình thức đầu tiên của kịch biểu lộ tình cảm.
Có thể nói minh họa sách là một trong những phần khá quan trọng các sách tạo tác tượng Phật. Nếu công thức được diễn giải bằng lời, ít nhiều khó hiểu trừu tượng, thì hình vẽ sẽ giúp phân tích kỹ hơn, đơn giản hơn cho việc tạo tác tượng Phật. Trong bài này chỉ chú trọng đến các bức tranh minh họa Phật giáo để nói về việc điêu khắc tượng Phật thì thấy rằng có hai loại tranh minh họa. Một là minh họa tỷ lệ tượng, hai là minh họa hình ảnh tượng Phật.
Chúng ta khái niệm “yếu tố tạo hình” như những yếu tố cơ bản, từ đó tạo ra không gian 3 chiều. Lúc ánh sáng chiếu vào không gian này tạo nên hình thái về sự thay đổi của màu sắc, tương phản, xù xì... Người ta chia các yếu tố này thành 4 loại chính: điểm, đường, diện, khối. Ngoài điểm, sự phối kết quan hệ giữa 3 loại kia sẽ tạo nên không gian.
Đã có những hình thức múa hát đeo mặt nạ. Trong dân gian có một nghệ sỹ múa hát nổi tiếng được vua Đinh phong chức “Ưu bà”. Đó là : “Bà Huyền nữ Phạm Thị Trân, sinh năm 926, người Hồng Châu phong tư mỹ lệ, giỏi về ca hát, múa và làm trò, nổi tiếng trong đám hý phường. Khoảng năm Thái Bình (970 – 980), quan cai hạt đưa tiến vào cung, bà được phong chức Ưu bà chuyên dạy (múa hát) trong quân ngũ”. Thời gian này, vua Đinh đang xây dựng đội quân Thập đạo để động viên tinh thần các quân sĩ ngày đêm rèn luyện võ nghệ, sẵn sàng chiến đấu chống giặc, họ cũng cần có những giờ phút thư giãn giải trí, vì vậy bà Phạm Thị Trân đã trở thành Ưu bà chuyên dạy biểu diễn nghệ thuật trong quân đội.