Sự phân chia tranh mang tính chất loại hình với ý nghĩa là sự phân chia theo chức năng xã hội của nghệ thuật. Ở phương diện thể loại, cách quan niệm của người Việt không thật rõ ràng, nhưng ở phương diện loại hình lại được hiểu rất chân xác. Ví dụ người Việt cổ không có mấy khái niệm về tranh tĩnh vật, nhưng tranh “Ngũ quả”, tranh “Cổ đồ” (tranh vẽ về đồ cổ quý hiếm, bao gồm cả vẽ hoa lá với đồ cổ). cũng có thể coi là tranh tĩnh vật nhưng để thờ cúng. Nếu “văn” để tải đạo, “nhạc” để hòa hợp lòng người, thì “họa” để nêu gương người trước, răn dạy kẻ sau. Khái niệm “tượng” dùng cả trong hội họa lẫn điêu khắc để chỉ hình ảnh thay thế cho sự tự nhiên và con người, đặc biệt thay thế cho thần linh. Vì vậy nó vừa là khái niệm hữu hình, vừa là khái niệm vô hình.
Đại học Mỹ thuật công nghiệp
Còn đối với các tác phẩm mỹ thuật tạo hình là các yêu cầu chủ yếu là cách nhìn, là tâm tư tình cảm của nghệ sỹ; là cái riêng, sự độc đáo, cái mới, giá trị sáng tạo tài năng của “người mẹ” (nghệ sỹ) chứ không phải của bố. Cuối cùng là “cái hồn” là sự sinh động, sự sống ẩn tàng bên trong tác phẩm cũng do tài năng, cảm xúc của “người mẹ”. Đứa con sẽ giống mẹ hay bố còn tùy vào “bà mẹ - chủ thể sáng tạo” đặt vai trò, vị trí, ý nghĩa của “ông bố” như thế nào so với chính “bà ta” và đứa con. Khái niệm “giống bố, giống cha” trong kiến trúc và mỹ thuật ứng dụng được đặt nặng hơn mỹ thuật tạo hình.
Từ hình khắc tranh bản kinh đến hình khắc tranh dân gian đều có một số hệ thống hình mẫu nhất định mà ý nghĩa có tính phổ cập để dân chúng nhìn vào có thể biết ngay ý nghĩa của bức tranh là gì. Có thể dùng khái niệm “motif” hay “hình mẫu” để xem xét tính thống nhất và loại biệt trong các bức đồ họa cổ với ý nghĩa đơn lẻ và kết hợp của chúng. Song ngoài hệ thống hình mẫu dễ hiểu, ngữ nghĩa tương đối ổn định, còn một hệ thống hình mẫu khác không nhằm để hiểu, có tính bí hiểm, được dùng trong các hình khắc bùa chú, trong nghi lễ có tính phù thủy dành riêng cho các thầy pháp cao tay. Dù là hình mẫu có tính phổ cập đến các hình mẫu có tính bí hiểm thì hình dạng và ngữ nghĩa của chúng được khái quát, trừu tượng hóa dần dần trong xã hội phong kiến, không chỉ dùng trong đồ họa mà dùng phổ biến trong điêu khắc và nghệ thuật trang trí, ứng dụng.
Nét và mảng trong tranh Đông Hồ và Hàng Trống thưa hơn khoảng cách nét rất rộng, được khắc rất sâu tới 1cm. Đông Hồ thường dùng lối khắc nét chân dê. Nghĩa là ngọn nét thì nhỏ, nhưng chân nét loe rộng sang hai bên cho vững chãi. Cả hai lối “khắc vuông” và “khắc tròn” đều lấy nền rất kỹ, rất sạch, nên khi in tranh, sách rất nét và không dây bẩn. Nếu như vẽ và khắc phụ thuộc vào các cá nhân tài khéo, thì công đoạn in mang rõ tính chất tập thể của một dòng tranh phường thợ.
Một bức tranh sơn mài truyền thống được hoàn thiện là khi không nhìn thấy họa tiết phía dưới. Trong quá trình sáng tác, họa sĩ sẽ mài bề mặt sơn để các chi tiết dần dần lộ và rất nhiều họa sĩ thích cảm giác đó. Họa sĩ Phạm Chính Trung đã dành gần 50 năm để thành thạo sơn mài và biết rằng công việc này có mệt mỏi nhưng thành quả rất xứng đáng. Nó là một loại hình nghệ thuật có giá trị đáng kinh ngạc trong nền văn hóa Việt Nam, đòi hỏi cả thời gian, kỹ năng và những nguyên liệu tự nhiên cần thiết riêng để tạo ra một bức tranh.
Một trong những đặc tính hấp dẫn chính của sơn dầu là độ bóng. Bằng cách thêm một lượng nhỏ màu dầu vào dung môi trong suốt, họa sỹ có thể nhấn nhá bức tranh một cách tinh tế. Điều này được gọi là glazing. Hầu hết các Bậc thầy thời Phục Hưng đã sử dụng một lớp sơn nền, sau đó phủ vô số lớp màu mỏng lên trên để tạo ra những hình ảnh mang tính chân thực nhất. Độ trong mờ của màng sơn cho phép tạo ra các dải màu phức tạp. Nhưng nếu làm sai kỹ thuật sẽ khiến tranh bị nứt.
Lịch sử kiến trúc nghiên cứu sự phát triển và lịch sử của nền kiến trúc thế giới thông qua việc nghiên cứu các ảnh hưởng ở các góc độ khác nhau như nghệ thuật, văn hóa, chính trị kinh tế và kỹ thuật. Nhìn chung, nhiệm vụ của lịch sử kiến trúc là phải xây dựng được mối quan hệ giữa ý nghĩa biểu cảm vô hình của công trình kiến trúc (ngữ nghĩa, chức năng, biểu tượng…) với sự thể hiện hữu hình của các đối tượng kiến trúc (kich thước, vật liệu, thành phần của kiến trúc…) và đặt vào trong một nghiên cứu tổng thể của thời điểm lịch sử.
Việc nghiên cứu các mối quan hệ giữa mỹ thuật và nhiếp ảnh có rất nhiều góc độ khác nhau và còn nhiều ý kiến chưa thống nhất, nên khi đi tìm sự tương đồng và khác biệt giữa hội họa và ảnh nghệ thuật ta sẽ bắt gặp không ít những vấn đề phức tạp. Hơn nữa, khi đặt chúng trong mối quan hệ đa chiều của nghệ thuật tạo hình thì lại nảy sinh những vấn đề không chỉ là sự riêng có giữa hội họa và ảnh nghệ thuật mà còn liên quan đến nhiều nghệ thuật khác như điêu khắc, đồ họa, trang trí,…
Chùa Việt là một thực thể kiến trúc gắn liền với đời sống của người Việt dẫu lịch sử có biến động thịnh hay suy. Cho đến ngày nay, người ta khó có thể hình dung về một ngôi chùa Việt thưở ban đầu, nhưng dường như tâm thức Việt về đạo Phật cổ xưa vẫn ẩn hiện trong các tác phẩm tạo hình điêu khắc Phật giáo Việt Nam. Do đó nghiên cứu về nghệ thuật điêu khắc Phật giáo có thể bổ sung những nguồn tư liệu hữu ích cho việc nghiên cứu kiến trưc và ngược lại.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy thì ngôi chùa Việt ở miền Trung này còn ghi nhận dấu ấn của lịch sử phong kiến Việt TK 16-17 thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Đàng trong, đoạn tuyệt với Đàng ngoài, nên ngôi chùa theo chân họ vào vùng đất mới là ngôi chùa chưa hoàn thiện từ TK 16 trở về trước.
Đồ án hoa sen là đề tài xuyên suốt trong lịch sử tạo hình nghệ thuật dân tộc Việt. Hình tượng hoa sen xuất hiện trong tất cả các công trình từ kiến trúc, điêu khắc đến hội họa với những hình thái, đặc điểm khác nhau mang phong cách, tư tưởng riêng ở mỗi thời kỳ lịch sử. Qua việc khảo sát 11 văn bia tiến sĩ ở thời Lê sơ ở Văn Miếu thấy rằng hình tượng hoa sen xuất hiện trong 9 văn bia với nhiều dạng thức khác nhau.
Trong nghệ thuật nề đắp nổi trang trí, vữa nề có một vai trò hết sức quan trọng đối với việc tạo ra hình thể trang trí trên công trình kiến trúc thời Nguyễn. Vữa là một trong những vật liệu chính tạo nên khối thể cũng như để hoàn thiện các chi tiết hoa văn, họa tiết. Theo nhiều nguồn tư liệu và kiểm chứng qua phục hồi thực nghiệm chất liệu vữa nề thì nguyên liệu dùng cho vữa cổ bao gồm chủ yếu là vôi, sò, cát, mật mía, nhựa cây, giấy bản hoặc bột rơm…
Trong nghệ thuật tạo tác tượng phật, chất liệu là một vấn đề vô cùng quan trọng quyết định việc tạo hình nên một pho tượng như thế nào. Tùy theo từng chất liệu khác nhau mà người thợ điêu khắc dân gian có những phương cách và kỹ thuật riêng ở đó thể hiện ra trình độ, kinh nghiệm của từng người. Tuy nhiên ở mỗi chất liệu này đều có những nguyên tắc tạo hình chung để dù cho là nghệ nhân hay thợ bắt đầu vào làm nghề đều phải tuân thủ.