Đại học Mỹ thuật công nghiệp

Ngôn ngữ tạo hình trong KT (Phần 2)

Điểm có thể được hình thành do phép chiếu một đường thẳng, một đoạn thẳng theo tuyến tính. Ví dụ như: cột được đặt trên mặt bằng như một điểm và giữ những đặc trưng thị giác như là một điểm. Như vậy, tâm vòng tròn, tâm đáy khối trụ, tâm của khối cầu cũng là những hình thức điểm mà ta cần phải quan tâm trong thiết kế tạo hình (Hình 2.12b, c). Đối với khái niệm hai điểm mặc dù chỉ xác định một độ dài hữu hạn, nó cần được xem như là một trường đoạn của một trục nối liền vô hạn.

Các loại hình của MT sân khấu (Phần 1)

Mỹ thuật sân khấu bao gồm: bối cảnh trang trí, trang phục, ánh sáng, đạo cụ, hóa trang… Nhìn chung, nghệ thuật biểu diễn sân khấu ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, dù là loại hình nghệ thuật nào của dân gian, truyền thống hay hiện đại thì cũng đều cần có sự góp mặt của yếu tố mỹ thuật. Không những nó phục vụ cho quá trình diễn xuất, gắn với ý tưởng biểu hiện của đạo diễn, mà còn tham gia vào việc tạo hình trên sân khấu, với cái đẹp trong cấu tứ từ sự kết hợp của hội họa và điêu khắc… cùng nhiều phương thức thể hiện.

Ngôn ngữ tạo hình trong KT (Phần 3)

Một đường trải dài sẽ tạo thành một diện. Diện có hai chiều dài và rộng nhưng xét về tương đối không có chiều sâu. Còn đường chu vi và đường bao là hình. Những đặc điểm đặc trưng của diện là tính chất trong diện tích bề mặt của diện như: độ nhẵn bóng hay sần sùi và màu sắc… mà mang lại biểu cảm cho tạo hình. Hình có đặc trưng từ những đường biên khép kín tạo nên hình, nó được nhìn từ chính diện hoặc trong phối cảnh. Bao gồm góc và độ cong hay tính chất biến đổi của đường bao.

Các loại hình của MT sân khấu (Phần 2)

Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian lâu đời nhất của nước ta, trong quá trình hình thành và phát triển, không ảnh hưởng yếu tố ngoại lai. Nghệ thuật chèo được kết tinh trên cơ sở trò nhại, múa và hát, phổ biến ở đồng bằng miền Bắc nước ta, do những người nông dân trình diễn; đối tượng người xem cũng là tầng lớp bình dân. Và như chúng ta đã biết, chèo cũng là sân khấu tự sựu, tả thần, ước lệ cùng loại hình nghệ thuật sân khấu ca kịch.

Các nghi thức Phật giáo trong tạc tượng

Có thể thấy việc tạo tác nên một pho tượng trong các ngôi chùa Việt là rất công phu trên nhiều khía cạnh khác nhau về mặt kỹ thuật và tỷ lệ. Nhưng pho tượng sẽ chỉ là pho tượng nếu chỉ tạc khắc, đúc, đắp một cách thông thường. Để tạo tác nên một pho tượng Phật và trao cho pho tượng đó một sứ mệnh tâm linh, thì trước và sau khi tạc khắc tượng Phật, người ta thường tiến hành một số nghi lễ.

Nghệ thuật minh họa thời trang

Nghệ thuật nhiếp ảnh lẫn minh họa thời trang đều thuộc những loại hình nghệ thuật. Quá trình sáng tạo của hai loại hình này là một ngành khoa học tinh vi và phức tạp. Những khi thực hiện đúng cách thì nó trở nên vô cùng đơn giản, người xem sẽ cảm nhận được tính sống động và độ rõ nét của bức ảnh. Vậy thì nghệ thuật minh họa thời trang là gì? Khi đó nó không còn là một bản vẽ hay bức ảnh chụp trong tờ tạp chí thời trang. Ngành này không những trình bày trang phục mà còn thiết kế kiểu mẫu nhằm gợi lên cảm xúc cho người mộ điệu. Có nghĩa là nó tạo sức thuyết phục cho bạn.

Bài viết này dành cho những người mới bắt đầu nghiên cứu nghệ thuật. Nó chứa một danh sách các câu hỏi hướng dẫn sinh viên ngành mỹ thuật nói riêng và những người mới nghiên cứu nghệ thuật nói chung về cách phân tích một tác phẩm nghệ thuật. Các câu hỏi bao gồm một loạt các thuật ngữ nghệ thuật chuyên môn, khuyến khích mọi người sử dụng từ vựng theo chủ đề cụ thể trong các câu trả lời. Ngoài ra, nó cũng kết hợp lời khuyên từ các chuyên gia, cố vấn nghệ thuật và các giáo viên mỹ thuật, những người có kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy khái niệm trong nhà trường.

Tranh in độc bản

In độc bản là phương pháp in đồ họa chỉ cho ra một tranh in duy nhất. Có ý kiến cho rằng, in độc bản là loại tranh lai ghép hay pha tạp đầy tranh cãi. Nó không phải là tranh in, cũng không phải là hội họa, mà là một sự kết hợp của cả haii. Điều này chưa thật chính xác bởi tranh in độc bản mang ý nghĩa là tranh in ngay trong tên gọi của nó ở bất kỳ ngôn ngữ nào. Song, nói đó là sự kết hợp của hội họa và đồ họa in ấn thì không hoàn toàn sai. Trong các cách thể hiện tranh in độc bản có kỹ thuật bôi, vẽ màu lên bề mặt khuôn in đúng theo nguyên tắc hội họa và tranh in ra từ đó có hiệu quả thẩm mỹ của hội họa. Tuy nhiên, khi đã in ra giấy thì hình ảnh in kiểu đó lại thuộc phạm vi đồ họa in ấn.

Các thể loại cơ bản của tranh in

Quá trình phát triển của nghệ thuật tranh in luôn gắn với các bước tiến của khoa học, công nghệ vật liệu và in ấn. Đó chính là sự khác biệt của tranh in với các loại hình nghệ thuật thị giác hai chiều khác. Người họa sĩ tranh in không chỉ sáng tạo bằng khả năng tạo hình, tư duy thẩm mỹ, mà còn bằng sự tìm tòi, khám phá, làm chủ các phương pháp chế bản, in ấn và những chất liệu, kỹ thuật cần thiết.

Kỹ xảo vẽ mỹ thuật bát và siêu nước

Chúng ta thường nói, vẽ phải dựa vào các cảm giác, nhưng đối với một số đồ vật muốn nắm vững chúng phải gác bỏ cảm giác, đó là loại cần giải phẫu và phối cảnh: thứ ba là cần phải làm hài hòa mối quan hệ giữa tổng thể và cục bộ, và cái khó là ở chỗ, không phải là vấn đề biểu hiện như thế nào, mà còn phải biết cách dùng phương pháp tư duy biện chứng để xử lí mặt tranh.

Nguồn gốc và quá trình PT tranh in nổi

Lịch sử loài người ghi nhận rằng kỹ thuật tạo khuôn in nổi bằng đất nung hay đá đã có từ thời văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà. Con người thời đó sử dụng chúng để nhân bản các ký tự, dấu hiệu nào đó trên các chất liệu khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp nhân bản các tín hiệu thị giác chỉ trở nên hiệu quả và phát triển sau khi con người phát minh ra giấy. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng người Trung Quốc đã sáng tạo ra cách in thô sơ đầu tiên - in rập, vào khoảng thế kỷ thứ 2, sau khi họ phát minh ra giấy. In rập là hình thức in nổi xuất hiện trước khi khắc gỗ ra đời.

PP Thẩm định tranh nghệ thuật trong NT

Khi đầu tư vào lĩnh vực nghệ thuật hội họa thì cần phải xác định tác phẩm nghệ thuật có chất lượng cao hay không, sẽ đòi hỏi bạn phải có kiến thức nghiên cứu về hội họa và trào lưu nghệ thuật hoặc thuê cố vấn nghệ thuật, người có thể giúp bạn quyết định đầu tư vào tác phẩm để nắm lấy tất cả các phong cách nghệ thuật khác nhau, hãy đưa ra quyết định theo cảm nhận của riêng mình, bởi vì đây là nghệ thuật phản ánh sở thích của riêng cá nhân.

 Tranh in độc bản màu nước

Tranh in độc bản màu nước là tranh in chỉ có một bản duy nhất được thể hiện bởi các dạng màu gốc nước. Trong thực hành tranh in độc bản màu nước trên thế giới người ta thưởng sử dụng không chỉ màu nước (aquarelle) mà cả các màu tự nhiên ở dạng nước chiết xuất từ thực vật, khoáng sản và các màu tan trong nước như guát, bột màu. Nhìn chung, từ "màu nước" ở đây chỉ các loại màu gốc nước và tan trong nước, tuy nhiên, trong thực tế thì màu aquarelle được sử dụng nhiều hơn cả. Cho đến nay, người viết chưa tiếp cận được tài liệu nào có thông tin chính xác về sự ra đời của tranh in độc bản màu nước.

MANDALA trong bố cục tạo hình kiến trúc

Mandala thường được làm bằng cát nhuộm màu, được các tu sĩ tạo ra với rất nhiều chi tiết rất tỉ mỉ và sau đó lại được quét bỏ đi để nói lên tính vô thường trong phật giáo. Mandala xuất phát từ tiếng Phạn, có nghĩa là vòng tròn, trung tâm, thống nhất và toàn vẹn. Gốc của chữ “manda” là cơ bản tinh khiết và “la” là dung chứa. Như vậy ý nghĩa của Mandala là hình vẽ có thể chứa được những gì linh thiêng nhất cuộc sống.

Hình tượng con ngựa trong điêu khắc đá

Nghệ thuật tạo hình con ngựa thời Lê Trung Hưng (1533–1789) là một trong những điểm nhấn trong điêu khắc cổ Việt Nam. Đây là một trong những giai đoạn mà ngựa có số lượng tác phẩm nhiều nhất, mạnh mẽ nhất. Các nghệ nhân điêu khắc dân gian đã tạo nên những con ngựa đá có kích thước lớn cùng cách tạo hình phối hợp cả nghệ thuật tượng trưng và nghệ thuật hiện thực. Dù là những nghệ sĩ khuyết danh xây dựng đình, chùa, đền, lăng... đi kèm cùng hệ thống tượng thờ không bận tâm đến lưu danh thiên cổ nhưng những phường thợ xưa đã làm nên một bản sắc văn hóa trường tồn qua hình tượng con ngựa đá trong mỹ thuật Việt Nam thời kì phong kiến nói chung, thời kì Lê Trung Hưng nói riêng.