Vì sao hội họa Đông – Tây lại sử dụng màu vàng kim
và thanh kim thạch để vẽ tranh thần Phật
Trong lịch sử mỹ thuật, người ta thường sử dụng vàng và đá quý thanh kim thạch làm nguyên liệu vẽ trong các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo. Dân gian cho rằng: đó là để bày tỏ sự kính ngưỡng của con người đối với Thần Phật… Điều này là sự thật, nhưng thực ra, đằng sau đó còn ẩn chứa những nội hàm uyên nguyên khác nữa…
Lại nói, đối với khái niệm thân vàng kim, tóc lam của Thần thể, các bạn có cảm thấy quen thuộc với hình tượng Phật ở phương Đông không? Bởi vì trong mỹ thuật Phật giáo, hình tượng Phật đại đa số là như vậy. Mà mỹ thuật trong Phật giáo còn có một nhan liệu khác gọi là “Phật đầu thanh” (màu xanh đầu Phật), dùng để tạo màu tóc cho các bức tượng Phật. “Phật đầu thanh” chỉ là tên gọi, mà không hạn định nguyên liệu, vì vậy bột màu lam đồng khoáng sắc azurite hay bột màu thanh kim thạch lapis lazuli, hoặc thậm chí là hỗn hợp của cả hai đều được sử dụng.
Sự tương đồng của màu vàng kim và thanh kim thạch trong văn hóa phương Đông và phương Tây:
Lớp sơn ultramarine được sơn trên thân kim của tượng Phật có độ bão hòa cao hơn và màu đậm hơn một chút, có thể tạo nên sự tương phản với màu kim. Vào thời cổ đại, để có thể biểu hiện được sắc lam trên thân kim của Thần, người ta đã chế tạo ra sắc liệu lý tưởng bằng cách nghiền mài và thuần chế thanh kim thạch. Nhưng vì việc sử dụng đá quý làm nhan liệu rất đắt tiền, nên nó phổ biến hơn ở các văn vật tượng Phật quy mô vừa và nhỏ ở những địa khu chịu ảnh hưởng lớn của Phật giáo như Tây Vực. Mà Trung Quốc từ hàng ngàn năm trước đã có xu hướng sử dụng azurite làm sắc liệu. Tất nhiên, cũng có nhiều tượng Phật mà tóc không được phủ màu. Nhưng ở Tây Tạng, nhan liệu làm bằng thanh kim thạch thường được thấy trên các bức thang ka vẽ tay (tranh cuộn vẽ các vị Phật của Phật giáo Tây Tạng).
Được thờ cúng trong chùa Liên Hoa Viện ở thành phố Tamana, tỉnh Kumamoto, Nhật Bản, tượng Phật Như Lai Fukongchi, một trong năm vị Tathagatas của Phật giáo Mật tông, chủ trì thế giới Liên Hoa Bắc phương. Toàn bộ tượng Phật được phủ sắc vàng kim, nhưng tóc của Phật lại có màu xanh lam, đây là một đặc điểm chủ yếu của mỹ thuật Phật giáo.
Thực hành chế biến thanh kim thạch thành bột ultramarine phổ biến hơn trong lịch sử nghệ thuật phương Tây. Tôi đã nói về truyền thống sử dụng bột màu ultramarine trong hội họa phương Tây để vẽ áo choàng của Thánh Mẫu Santa Maria trong bài viết “Diễn giải mỹ thuật hai trăm năm sau thời kỳ Phục hưng”. Màu xanh đắt tiền này được dùng để thể hiện sự linh thiêng. Tất nhiên, loại nhan liệu này không chỉ giới hạn trong việc vẽ trang phục của Thánh Mẫu Santa Maria, các bức tranh truyền thống thường sử dụng màu này cho trang phục của Thượng Đế và Chúa Giê-su
Đức Santa Maria do họa sĩ người Ý Giovanni Battista Salvi da Sassoferrato vẽ, vào khoảng năm 1654. Màu sắc tối giản của trang phục Santa Maria trong bức tranh được tạo ra bằng cách mài và tinh lọc thanh kim thạch. (Ảnh: phạm vi công cộng)
Bức tranh sơn dầu “L’Apparition du Christ aux pèlerins d’Emmaüs” của họa sĩ Pháp Laurent de La Hyre, vẽ năm 1656. Trang phục màu xanh của Chúa Giêsu trong bức tranh cũng được vẽ trên chất liệu ultramarine làm từ thanh kim thạch. (Ảnh: phạm vi công cộng)
Trong lịch sử mỹ thuật, người ta thường sử dụng vàng và đá quý thanh kim thạch làm nguyên liệu trong các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo, dân gian cho rằng đó là để bày tỏ sự kính ngưỡng của con người đối với Thần nên đã sử dụng những chất liệu cao quý để vẽ nên những tác phẩm nghệ thuật ngợi ca Thần Phật… Điều đó là sự thật, nhưng đó chỉ là biểu hiện bên ngoài. Thực tế, những chất này được sử dụng làm nhan liệu để vẽ hình tượng Thần thánh không chỉ bởi vì sự đắt tiền của chúng, mà là vì bản thân sự cao quý của nó cũng có nguồn gốc uyên nguyên. Kỳ thực, vạn vật đều có linh, và mọi sự đều có tồn tại nguyên nhân thâm sâu hơn; bản thân tài liệu này cũng liên quan đến học vấn cao thâm hơn, chỉ có thể dùng huệ tâm lĩnh ngộ, tùy duyên mà đắc.
Một điều cần nói rõ nữa là thanh kim thạch không được gọi với tên hiện tại của nó trước triều đại nhà Minh và nhà Thanh. Vì Trung Quốc đã nhập khẩu loại đá quý này từ các nước khác từ xa xưa, các vùng khác nhau trải qua các thời đại khác nhau, tên gọi các loại nhân liệu cũng khác nhau, thậm chí có vẻ rất khó hiểu; ngoài ra, người xưa cũng có thể nhầm lẫn với các loại khoáng vật màu lam khác khi đặt tên cho chúng, vì vậy nghiên cứu văn bản trên các tài liệu cổ của Trung Quốc có một số yếu tố không chắc chắn trong đó. Tuy nhiên, nếu nó có thể được bổ sung bằng các tài liệu tiếng nước ngoài có liên quan, thì sẽ dễ dàng làm rõ tình huống cụ thể.
Một ví dụ nổi tiếng là Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, còn được gọi là “Phật Dược Sư”, chủ trì thế giới Lưu Ly. Mặc dù đều là những danh hiệu quen thuộc nhưng có lẽ nhiều người còn mơ hồ hơn về khái niệm “Lưu Ly”. Chính xác thì Lưu Ly là như thế nào? Vậy chúng ta hãy tham khảo ngôn ngữ của các quốc gia khác: “Dược Sư Lưu Ly Quang Vương” trong tiếng Anh gọi là “Medicine Master and King of Lapis Lazuli Light”, tiếng Pháp gọi là “Maître guérisseur de la Lumière de Lapis-lazuli”, và tiếng Ý là” Maestro della Medicina dalla Luce Lapislazzuli”.
Thế giới của Phật Dược Sư là “Đông phương Tịnh Lưu Ly thế giới” trong tiếng Anh được gọi là “Eastern pure land of Pure Lapis Lazuli”, “Terre pure de pur Lapis- lazuli” trong tiếng Pháp, và “Pura terra di puro Lapislazzuli” trong tiếng Ý. Tất cả những chỗ trong các cụm từ tương ứng với “Lưu Ly” đều được viết là “Lapis lazuli” (hoặc một biến thể rất nhỏ), có nghĩa là “thanh kim thạch” trong tiếng Trung Quốc.
Phật Dược Sư ngồi giữa và hai vị Bồ Tát đứng trái phải. Tên đầy đủ của Phật Dược Sư là “Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai”, Theo Phật giáo nhìn nhận, màu lam của thanh kim thạch là sắc thân của Phật Dược Sư. (Ảnh: phạm vi công cộng)
Tuy nhiên, “Lưu Ly thế giới” chỉ là một cách gọi tắt. “Lưu Ly” ở đây không phải là “Lưu Ly” ở phàm trần, mà là “Tịnh Lưu Ly”, tiếng Anh gọi là “Pure Lapis Lazuli” và tiếng Pháp là “Pur Lapis-lazuli”… Dịch sang tiếng Trung Quốc hiện đại chính là “Thanh kim thạch thuần khiết”. Nhưng khoáng thạch tại phàm trần của thanh kim thạch thực ra rất không tinh khiết, khác xa với trân bảo Phật giáo được ghi chép trong sách cổ, vì vậy bài viết này không quảng cáo cho thanh kim thạch. Mặc dù thanh kim thạch là một trong bảy báu vật của Phật giáo và được các thợ kim hoàn coi trọng, nhưng từ thời cổ đại, tu luyện đều yêu cầu vứt bỏ những chấp trước vật chất; điều trọng yếu đối với người tu hành là chân chính đề cao tâm tính và phẩm đức cũng như niềm tin chân chính của con người đối với Thần Phật.
Qua nghiên cứu lịch sử, chúng tôi nhận thấy màu sắc truyền thống chân chính có liên quan mật thiết đến Thần, Phật, Thiên và Địa. Cho dù đó là “Kim thân” (Thân màu vàng kim) được đề cập bởi Phật gia hay “Tử khí” (khí màu tím) được đề cập bởi Đạo gia, những màu sắc này mang lại cho mọi người một cảm giác rất chính diện, có cao quý trang nghiêm, có siêu phàm thoát tục. Ngược lại, phàm tục bị gọi là “hồng trần”, nơi ô tạp hơn nữa bị gọi là “khu đèn đỏ”… Những từ này được cả thế giới sử dụng, điều đó cho thấy cảm thụ của con người đối với màu sắc là tương đồng.
Tất nhiên, về chức năng của màu sắc, các màu khác nhau có công dụng khác nhau. Tác giả không bài xích màu đỏ, bởi vì màu đỏ cũng có nhiều tầng thứ khác nhau. Kiến nghị ở đây là tránh lạm dụng màu đỏ một cách cực đoan, cũng không nên sùng bái màu đỏ như hiện nay. Tác giả hy vọng bài viết này có thể cung cấp một góc nhìn mới cho những người yêu thích và ủng hộ màu sắc truyền thống, xua tan ‘lớp sương mù đỏ’ trong hoàn cảnh mông muội, và để mọi người một lần nữa cảm nhận được về thế giới truyền thống đa sắc và mỹ hảo.
- Theo Epoch Times (Hương Thảo biên dịch) -
>>> Hoa văn trang trí Đông - Tây (Phần 1)
>>> Hình thái và biểu tượng chấn song hoa sắt Phương Đông
>>> Màu sắc trong hội họa Phương Tây