Thiết kế ánh sáng sân khấu
1. Sự phát triển của thiết kế ánh sáng:
*  Ánh sáng trước đây:
anh sang 1
Thiết kế ánh sáng sân khấu có thể cổ xưa như nhà hát trang trọng. Người Hy Lạp trước đây đã xây dựng nhà hát của họ với không gian mở và định hướng chúng quan hệ với ánh nắng mặt trời, sử dụng ánh sáng tự nhiên để chiếu sáng sân khấu. Họ trình diễn vở kịch của mình tại những thời điểm khác nhau trong ngày, để tận dụng lợi thế sự khác nhau của ánh sáng tự nhiên. Loại hình này về bản chất, là thiết kế ánh sáng đầu tiên. Nhà hát Dionysus (Athens, khoảng năm 330 trước Công nguyên) và nhà hát Epidaurus (đã hoàn thành khoảng năm 340 trước Công nguyên) là những thí dụ về các nhà hát công cộng đầu tiên.
Ánh sáng cho nhà hát được phát triển qua nhiều thế kỷ, sử dụng cả hai nguồn: tự nhiên và sau đó là các nguồn nhân tạo. Mặt trời, nến, đuốc dầu, khí đốt, hồ quang điện và ánh sáng vôi? Tất cả đều có một vị trí trong ánh sáng sân khấu trước kia. Tại Italia thời Phục hưng, nhiều nền tảng của thiết kế ánh sáng như hiện nay, đã được xây dựng khá vững chắc.
* Ánh sáng sân khấu hiện đại:
Thiết kế ánh sáng sân khấu hiện đại bắt đầu tiến triển mạnh với sự xuất hiện của đèn đốt tim vào cuối những năm 1800. Sáng chế này cho phép phát triển thiết bị đèn (fixture) ánh sáng nhỏ, an toàn, di động, có thể dễ dàng đặt ở bất cứ đâu chung quanh sân khấu, và sau đó được điều khiển bởi một hệ thống dimmer từ xa. Trước đây trong thời kỳ ánh sáng khí đốt, ánh sáng sân khấu phức tạp đã thực sự tồn tại. Tuy nhiên, nó được giới hạn bởi công nghệ này có mùi khó chịu, với nhiều vấn đề vốn có của nó. Trong thời kỳ ánh sáng khí, một số lượng lớn nhà hát đã bị phá hủy bởi hỏa hoạn.
Trong thời gian đầu những năm 1900, ánh sáng sân khấu tiếp tục phát triển, một số ngành công nghiệp ánh sáng bắt đầu phát triển song song, vay mượn gốc cơ bản từ các lĩnh vực thiết kế ánh sáng sân khấu. Các lĩnh vực hiện đại của màn hình, phim ảnh, nhiếp ảnh và thiết kế ánh sáng truyền hình tất cả đã tiến hóa và phát triển từ những nguồn gốc cơ bản của thiết kế ánh sáng sân khấu ban đầu. Thiết kế ánh sáng sân khấu hiện nay đã được công nhận như là một sự hợp nhất của hai lĩnh vực: khoa học với nghệ thuật.
*  Ánh sáng sân khấu trong tương lai:
Tương lai của ánh sáng sân khấu rất thú vị. Sau khi có các bóng đèn đốt tim, ánh sáng sân khấu đã được cách mạng hóa trong những năm 1930 bởi sự phát triển của loại đèn phản xạ hình elip (ellipsoidal reflector) (Leko). Sự phát triển của các dimmer SCR vào năm 1960 tạo ra một sự thay đổi triệt để. Bây giờ các loại đèn tự động (được giới thiệu lần đầu tiên trong năm 1970) là cuộc cách mạng hóa ngành công nghiệp ánh sáng một lần nữa. Công nghệ mới gần đây đã sản xuất ra những màu sắc, chưa bao giờ nhìn thấy trong các thiết kế ánh sáng trước đây. Nguồn ánh sáng mới được phát triển bao gồm: Xenon, Metal Halide, cảm ứng, ánh đèn huỳnh quang và đèn lưu huỳnh. Việc sử dụng sợi quang học mang theo cả hai: “ánh sáng (light)” và “dữ liệu (data)” và sự phát triển hơn nữa của công nghệ chiếu hình tinh thể lỏng là tất cả các phần của tương lai thú vị cho thiết kế ánh sáng giải trí.
Thiết kế phần mềm cho máy tính sẽ tiếp tục phát triển và cuối cùng cho người thiết kế đầy đủ nghệ thuật điều khiển “tương tác” qua công nghệ “trực quan (visual)”. Phần mềm ánh sáng hiện nay cung cấp sự hỗ trợ với thiết kế, bản vẽ và giấy tờ. Thiết kế phần mềm trong tương lai sẽ sử dụng cả hai loại: màn hình cảm ứng và công nghệ “nhận dạng tiếng nói”. Có thể điều khiển tinh thần của hệ thống ánh sáng xa tới đâu?
2. Người thiết kế ánh sáng:
Người thiết kế ánh sáng sân khấu truyền thống chịu trách nhiệm cho việc thiết kế và giám sát tất cả các khía cạnh của ánh sáng cho một chương trình sân khấu điển hình. Trong giữa năm 1900 người thiết kế ánh sáng ở Anh và Mỹ phát triển và tinh chế các phương pháp thiết kế ánh sáng hiện đại cho sân khấu, múa và opera. Đó là chỉ sau khi sự phát triển của bóng đèn đốt tim mà những người tiên phong đầu tiên đã có thể thành lập các điểm cơ bản và tiêu chuẩn mới trong thiết kế. Cho dù làm việc trong một nhà hát cộng đồng nhỏ hay trong một hội trường opera lớn, người thiết kế ánh sáng là (hay nên là) một thành viên quan trọng và được tôn trọng của bất kỳ chương trình hiện đại nào. Thiết kế này, phối hợp với Giám đốc và các người thiết kế khác (thiết lập và trang phục) để đảm bảo rằng chương trình là đúng và phù hợp với ánh sáng trong tất cả các khía cạnh, từ khi thành lập đến khi hoàn thành.
Người sản xuất chương trình và quản lý nhà hát đã thực hiện điều này nhiều năm trước đây, họ có thể chi tiêu “hàng triệu” đô la cho cảnh trí, trang phục và diễn viên nhưng tất cả đều lãng phí nếu ánh sáng “xấu”. Nhiều chương trình thương mại hiện tại có nhu cầu rất cao về các yêu cầu ánh sáng cho nó và về mặt này, người thiết kế ánh sáng đã trở thành một thành viên quan trọng và không thể tách rời của ngành công nghiệp nhà hát và giải trí. Thiết kế ánh sáng thường được thiết kế ở giai đoạn cuối cùng ở nhà hát, và tất cả mọi người hoàn toàn hy vọng anh (chị) ta thực hiện được các ma thuật, phép lạ và làm cho bộ trang phục và diễn viên … “nhìn tuyệt vời”.
Nhiều cá nhân, trong những năm 1700 và 1800 đã đóng góp cho sự phát triển nghệ thuật và khoa học về thiết kế ánh sáng sân khấu. Không phải cho đến đầu những năm 1950 mới có, tuy nhiên cho đến khi vai trò của người thiết kế ánh sáng chắc chắn là một nghệ sĩ cuối cùng đã được thừa nhận. Cho đến thời điểm này, ánh sáng chủ yếu là một cái gì đó để được các kỹ thuật viên chăm chút. Ngày nay, hàng ngàn người thiết kế ánh sáng làm việc trên thế giới trong nhiều ngành công nghiệp giải trí khác nhau.
Thiết kế ánh sáng ngày nay thường có khuynh hướng chuyên môn hóa trong từng loại cụ thể của chương trình giải trí, mỗi yêu cầu hơi khác nhau trong phương pháp làm việc và kỹ thuật. Chuyên ngành có thể bao gồm chiếu sáng cho Nhà hát, Dance, Opera, Truyền hình, Công viên, cho show trượt băng, cuộc thi ngoài trời, truyền hình thương mại và các chương trình công nghiệp hay doanh nghiệp.
Một số thiết kế ánh sáng sân khấu cũng có thể chuyên môn hóa trong chuyên ngành. Thí dụ, hiện nay khó tìm một người thiết kế ánh sáng “dance” mà có thể làm việc tốt trong lĩnh vực múa hiện đại, hay nhiều người thiết kế ánh sáng chỉ hoạt động chuyên biệt trong lĩnh vực nhà “Rock”.
Bất kể dùng phương pháp rèn luyện ánh sáng nào, tất cả Những người thiết kế ánh sáng phải có một sự hiểu biết đầy đủ về các công cụ của họ và cả hai khía cạnh: vật lý và tâm lý của ánh sáng. Điểm cơ bản chính của tầm nhìn, ánh sáng và thiết kế, áp dụng cho bất kỳ phương pháp rèn luyện thiết kế ánh sáng nào.
Chỉ có khác biệt thực sự từ một ngành công nghiệp ánh sáng khác là hệ phương pháp (methodology) và các loại thiết bị liên quan. Thí dụ, người thiết kế màn hình có thể sử dụng đèn Fresnel 3”-150 watt, thiết kế sân khấu nhà hát có thể dùng Fresnel 8” – 2000 watt, và thiết kế truyền hình hay phim ảnh có thể sử dụng Fresnel 30”  - 1000 watt. Hơn nữa, người thiết kế ánh sáng phải có kiến thức và kinh nghiệm với các phương pháp ánh sáng, thiết bị (fixture) và các phần cứng có sẵn để phục vụ ngành công nghiệp ánh sáng đặc biệt của họ.
3. Mục tiêu của ánh sáng sân khấu:
anh sang 2
 
* Mục tiêu của ánh sáng sân khấu: “Ánh sáng sân khấu có thể được định nghĩa là việc sử dụng ánh sáng để tạo ra một cảm giác về TẦM NHÌN, TỰ NHIÊN, BỐ CỤC và TÂM TRẠNG (hay KHÔNG KHÍ)”. Vì vậy, bắt đầu một chương trong văn bản năm 1933: “Đề cương của chiếu sáng sân khấu của Stanley McCandless. Các văn bản ánh sáng toàn diện nhất, có khuynh hướng thảo luận về các mục tiêu nghệ thuật, (chức năng) của ánh sáng, trong những điều khoản này, McCandless công nhận rằng đây là những phẩm chất “chồng chéo” và một trong những cái hiện ra không tồn tại độc lập với những cái khác”.
* Tầm nhìn (Visibility):
TẦM NHÌN là thường được coi là chức năng cơ bản nhất của ánh sáng sân khấu. Những gì chúng ta không nhìn thấy, chúng ta hiếm khi hiểu rõ được nó. Tầm nhìn bị phụ thuộc vào nhiều hơn so với cường độ của ánh sáng. Các yếu tố khác như, tương phản, màu sắc, kích thước và dịch chuyển tất cả có thể ảnh hưởng đến tầm nhìn. Khoảng cách, độ tuổi và tình trạng của mắt cũng đóng vai trò quan trọng trong tầm nhìn. “Tầm nhìn tốt về bản chất là lựa chọn mục đích của nó là để tiết lộ những điều có chọn lọc trong các điều khoản của độ sắc sảo”. – (S. McCandless, 1933). 
* Tự nhiên (Naturalism) và Thúc đẩy (Movation):
anh sang 4
TỰ NHIÊN tạo ra một cảm giác về THỜI GIAN và ĐỊA ĐIỂM. Thiết lập sân khấu có thể được đánh giá cao hay thực tế hoàn toàn trừu tượng, vô lý hay cách điệu. Nếu thời điểm trong ngày là quan trọng hay địa điểm là thực tế, sau đó động cơ thúc đẩy thường được cung cấp bởi ánh sáng mặt trời, ánh trăng, ánh lửa, ánh đèn hay các nguồn sáng sân khấu tự nhiên khác.
Khái niệm về phong cách bao gồm: tự nhiên, không tự nhiên, thực tế, siêu thực, Pointilistic, tương lai, đơn giản, ấn tượng, Expressionistic, Expansionistic, trừu tượng, hiện đại, tôn giáo, lãng mạn, Victorian, nguyên thủy, Gothic, Elizabethan, Georgian và nhiều hơn nữa.
* Bố cục (Composition):
anh sang 3
BỐ CỤC đề cập đến các khía cạnh hình ảnh tổng thể của sân khấu, chịu ảnh hưởng của ánh sáng. Bố cục cũng liên hệ với DẠNG THỨC của một đối tượng. Một cảnh (scene) sân khấu có thể tràn lan rộng rãi nhẹ nhàng, ngay cả ánh sáng, biểu lộ tất cả các đối tượng như nhau, hay nó có thể được chiếu sáng bởi ánh sáng cao cục bộ chỉ trên các diễn viên – hay bất cứ cái gì nằm ở giữa. Vì vậy, bố cục trong ánh sáng phải biểu lộ ra diễn viên, các đối tượng và khung cảnh tương ứng với tầm quan trọng của họ, bằng cách xây dựng một hình ảnh trực quan.
Khái niệm bố cục bao gồm: cân bằng, không cân bằng, đối xứng, không đối xứng, đơn giản, phức tạp, trừu tượng, hình học, phân mảnh, biểu tượng, năng động, tuyến tính, ngẫu nhiên, thô, ngang, dọc, chéo và còn nhiều nữa…
* Tâm trạng (Mood) và Không khí (Atmoshpere):
anh sang 2
 
TÂM TRẠNG xem xét các phản ứng tâm lý cơ bản của khán giả. Nếu các yếu tố ánh sáng khác đã được áp dụng, kết quả cho ra một tâm trạng cụ thể, được tạo ra bởi thiết kế ánh sáng. Ánh sáng có thể làm cho một khán giả cảm thấy nhiều cảm xúc khác nhau. Cảm giác hạnh phúc, hài lòng, buồn bã, sợ hãi, kích thích (và thường là “chán”), tất cả đều hục thuộc vào một số lượng lớn các yếu tố tâm lý và sinh lý. Điều này cũng đúng đối với khán giả, giải thích tâm trạng tự nhiên hay khí quyển như nắng, mây, sấm chớp, mưa v.v… Những người thiết kế ánh sáng sân khấu nhanh chóng nhận ra rằng: “Mọi thức không phải là những gì nó đang có, mọi thứ là những gì chúng xuất hiện.” (Tác giả).
 
4. Phẩm chất của ánh sáng:
Bất kỳ nghiên cứu nào về thiết kế ánh sáng phải bao gồm một sự hiểu biết toàn diện cả về các tính chất VẬT CHẤT và TÂM LÝ của ánh sáng.
Kiến thức về hành vi và tính chất của ánh sáng có thể giúp giải thích về tầm nhìn và nhận thức của con người. Những người thiết kế ánh sáng quan tâm đặc biệt đến các tính chất của ánh sáng ảnh hưởng đến quá trình mắt / não và gây ra sự nhạy cảm và cảm xúc.
Một sự hiểu biết về các tính chất vật lý của ánh sáng cũng có thể giúp giải thích về quang học, ống kính, lý thuyết màu sắc, ánh sáng, thiết bị chiếu và nhiều hơn nữa. Định luật và các ứng dụng của khúc xạ, phản xạ và hấp thụ đang gặp phải và sử dụng hàng ngày bởi người thiết kế ánh sáng sân khấu và các khái niệm này phải được hiểu kỹ lưỡng cả về lý thuyết lẫn trong thực tế.
Những phẩm chất cơ bản của ánh sáng là CƯỜNG ĐÔ, DẠNG THỨC, MÀU SẮC, HƯỚNG XẠ và DỊCH CHUYỂN. Đây là những công cụ thiết kế ánh sáng.
Hầu như tất cả các hình ảnh trực quan có thể được mô tả, thảo luận và phân tích trong các điều khoản này – cả về vật chất lẫn tâm lý. Đây là một lớp học thực hành tuyệt vời mà thường bắt đầu với một phân tích về bức tranh sao chép từ “Old Masters”. Học viên học để thảo luận về những phẩm chất của ánh sáng, sử dụng các thuật ngữ như cường độ, hướng xạ, độ sáng, màu sắc, dạng thức và phân phối. Những thuật ngữ này được dùng để thảo luận về các bức tranh chi tiết từ một khu vực nhỏ này sang khu vực khác. Ngoài ra bức tranh như một toàn bộ thảo luận liên quan đến tác động tổng thể của ánh sáng: phong cách, tâm trạng, bố cục, hài lòng, cảm xúc và các phẩm chất khác. 
Những người thiết kế ánh sáng có kinh nghiệm cũng thường dựa trên những phẩm chất của ánh sáng để truyền đạt khái niệm ánh sáng của mình cho người khác. Thí dụ: “Sân khấu rực rỡ tắm mình trong màu xanh sâu (deep blue. Dần dần, mặt trời hổ phách nhẹ nhàng hồng lên trên đường chân trời, chiếu sáng nhẹ sân khấu trong một ánh sáng màu vàng nhạt. Ánh sáng có kết cấu lạnh và không dứt khoát từ từ bắt đầu phát triển và leo lên khắp mọi góc của sân khấu. Ngay sau đó, một sự ấm áp thấp từ bên phải sân khấu trở nên hiển nhiên, cân bằng (balanced) bằng cách suy giảm và làm lạnh các ánh sáng chung khác. Khi màn đêm buông xuống, toàn bộ sân khấu phát triển bóng mờ (shadow) và bao phủ với các đèn chiếu sắc nét. Màu xanh nền mờ nhạt lại xuất hiện như một trục của ánh trăng bạc sắc nét ngang sân khấu”.
 
5. Cường độ và ánh sáng:
* Cường độ và độ sáng (Instensity and Brightness):
CƯỜNG ĐỘ điển hình đề cập đến “sức mạnh” của một nguồn ánh sáng. Cường độ của một nguồn tồn tại độc lập với khoảng cách của nó. Cường độ được đo bằng candela (thuật ngữ cũ là candlepower).
RỌI SÁNG (Illumination) đề cập đến lượng ánh sáng chiếu trên một bề mặt. Thuật ngữ cũ của từ illuminace là “illumination”. Rọi sáng được đo bằng một đồng hồ độ sáng (đã điều chỉnh theo đường cong của mắt người) bằng footcandles hay lux (metric). Mức độ chiếu (rọi) sáng của ánh sáng sân khấu có thể là 25-200 footcandles hay nhiều hơn. Mắt có một sức mạnh đáng kinh ngạc về sự thích nghi và có thể thoải mái điều chỉnh mức độ chiếu sáng trong tự nhiên từ 1 đến 10.000 footcandles, hay nhiều hơn.
ĐỘ SÁNG đề cập đến cảm giác của thị giác gây ra bởi một nguồn sáng khi nó tương tác với một đối tượng và sau đó là mắt. Độ sáng phụ thuộc vào cường độ của nguồn, vào khoảng cách tới đối tượng và trên các thuộc tính phản chiếu của đối tượng. Footlambert là đơn vị của độ sáng.
Thí dụ: Tại nhà hát, khi chúng ta thay đổi các thiết lập dimmer của một fixture ánh sáng, nghĩa là chúng ta đang thay đổi cường độ đầu ra của nguồn. Điều này dẫn đến một thay đổi sự rọi sáng (ánh sáng chiếu vào sân khấu) và cảm nhận của mát là một sự thay đổi về độ sáng.
TẦM NHÌN phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không chỉ là cường độ của một nguồn hay độ sáng của một đối tượng. Màu sắc, độ tương phản, khoảng cách, dịch chuyển, các điều kiện của mắt và hệ thống thị giác, tất cả đều đóng một vai trò quan trọng đối với khả năng hiển thị tầm nhìn.
Người thiết kế ánh sáng sân khấu quan tâm về độ sáng của một đối tượng nhiều hơn so với cường độ nguồn sáng của nó. Họ đã sớm biết rằng đối tượng có độ sáng cao hơn thường thu hút sự chú ý trên sân khấu. Ánh sáng thu hút! Ngược lại, bóng tối che giấu – nhưng cũng có thể đưa khán giả có cảm giác buồn ngủ. Một trong các công việc chính của thiết kế ánh sáng là thực sự giữ cho khán giả tỉnh táo. Điều này không phải là buồn cười tuy bạn có thể nghĩ như vậy, nhưng khi bạn xem xét những gì chung ta làm cho một khán giả phổ biến. Thông thường vào cuối năm, sau khi ăn tối và uống vui vẻ, chúng ta cho khán giả ngồi trong ghế ngồi thật thoải mái – và sau đó tắt tất cả đèn đi. Những người thiết kế ánh sáng phải sử dụng sức mạnh của ánh sáng để giữ khán giả tỉnh táo và trỏ sự chú ý của họ lên sân khấu bằng cách cung cấp khả năng hiển thị thích hợp, quan tâm và trọng tâm có chọn lọc.
 
6. Dạng thức (Form) và Phân phối (Distribution):
Ánh sáng cung cấp cho các đối tượng một cảm giác về DẠNG THỨC. Mắt có thể nhận ra kích thước, hình dạng và vị trí của đối tượng. Thị lực hai mắt của chúng ta hỗ trợ quá trình này bằng cách cung cấp thêm về chiều sâu.
“Bằng phương tiện kiểm soát việc phân phối các mô hình ánh sáng và tạo ra các thành phần sáng và tối, nó có thể tạo ra cảm giác trên võng mạc sẽ được hiểu là dạng thức trong không gian”. (Đề cương của ánh sáng sân khấu, S. McCandless 1964).
Dạng thức áp dụng với ánh sáng khá phức tạp. Đó là tất cả mọi thứ chuyển động, cường độ, màu sắc và không định hướng. Tuy nhiên, dạng thức tạo ra và chịu ảnh hưởng bởi những phẩm chất khác của ánh sáng. Dạng thức đã làm chuyện này với sự PHÂN PHỐI của ánh sáng hay ánh sáng quét vào một bề mặt và để lộ ra một đối tượng. Chúng thường bàn luận về dạng thức trong giới hạn của sự rõ ràng và công nhận hình dạng của nó.
Dạng thức và phân phối có thể được thảo luận ở hai cấp độ:
Trước hết, chúng ta có thể thảo luận về dạng thức áp dụng cho các thiết lập sân khấu đối với vấn đề đối tượng xuất hiện như thế nào. Một sân khấu có thể được chiếu sáng đồng đều, nhẹ nhàng và dứt khoát từ một góc độ thấp phía trước. Cách khác, trên cùng một sân khấu, có thể có những đốm sáng không đồng đều, nối với các khoang tròn từ một góc độ cao trên đầu.
Chúng ta cũng có thể thảo luận về dạng thức áp dụng cho ánh sáng được tạo ra bởi một thiết bị (fixture) ánh sáng sân khấu. (Thí dụ: “Thiết bị cho ra một chùm tia mạnh, hình vuông với một góc phân tán rất rộng”).
Dạng thức trở nên phức tạp hơn nhiều khi bạn xem xét rằng một máy chiếu hình có thể được sử dụng như một thiết bị ánh sáng sân khấu. Kết quả của công nghệ này, ánh sáng sản xuất từ “fixture” có thể hoàn thành bất kỳ dạng thức, hình dạng hay phân phối nào.
Như trong tự nhiên, nguồn ánh sáng sân khấu có thể cho ra hay khuếch tán ánh sáng shadowless (không bóng) mềm hay shadow (bóng) cứng, hay bất cứ loại gì ở giữa. Các cạnh của một chùm ánh sáng cũng có thể nằm trong một dải: cạnh mềm gần như vô hình đến cạnh cứng mạnh xác định rõ. Một chùm ánh sáng cũng có thể phân phối không đồng đều, bị bể ra, như trong trường hợp của một Gobo hay mô hình máy chiếu.
 
7. Màu sắc (Color):
Tất cả ánh sáng đều có màu sắc. Ánh sáng trắng đơn giản chỉ là một hỗn hợp của tất cả các bước sóng có thể nhìn thấy (màu sắc). Mắt người nhạy cảm nhất với ánh sáng ở phần màu vàng, xanh lục của quang phổ thị giác (khoảng 550 nanomet) hơn là màu đỏ hay màu xanh ở cuối của quang phổ.
Màu sắc thường được thảo luận về GIÁ TRỊ, SẮC THÁI và SẮC ĐỘ (Value, Hue, Chroma).
Sắc thái là việc phân loại màu mà mắt nhìn thấy như đỏ, xanh lục, hổ phách… Giá trị cho thấy một màu sắc sáng hay tối, sắc độ cho thấy sự tinh khiết hay độ bão hòa của màu sắc.
Những màu sắc NGUYÊN THỦY (Primary) của ánh sáng là ĐỎ, LỤC và XANH (Red, green and Blue). Ba màu sắc này có thể kết hợp với nhau để cho ra bất kỳ màu nào khác, bao gồm cả màu trắng. Các màu nguyên thủy của các sắc tố là đỏ, vàng và xanh dương).
Màu sắc THỨ CẤP (Secondary) của ánh sáng được hình thành khi kết hợp 2 màu cơ bản. Ba màu thứ cấy là màu HỒNG TÍM (Magenta) (màu đỏ và màu xanh), VÀNG (Yellow) (màu đỏ và màu xanh lục) và XANH NGỌC (Cyan) (xanh dương và xanh lục).
Màu BỔ SUNG (Complementary) là sự kết hợp bất kỳ của một màu chính và một màu thứ cấp, pha trộn với nhau làm cho ánh sáng trắng. Thí dụ về các màu bổ sung: Màu HÔNG TÌM và LỤC, màu VÀNG và XANH, và màu XANH NGỌC và ĐỎ.
Khi ánh sáng trắng truyền qua một bộ lọc màu chỉ có các bước sóng tương ứng với màu đó được truyền đi. Tất cả các bước sóng khác bị hấp thụ lại. Điều này được gọi là lọc trừ (Subtractive).
Khi hai hay nhiều chùm ánh sáng màu kết hợp để chiếu sáng trên một bề mặt, nó kết hợp với nhau thông qua sự pha trộn phụ gia (Additive).
Những thiết bị ánh sáng sân khấu tạo ra ánh sáng màu bằng cách sử dụng các bộ lọc bằng nhựa (Plastic) chịu nhiệt độ cao. Có hơn 100 màu sắc khác nhau có sẵn từ nhiều nhà sản xuất. Những bộ lọc này mang đi (Pass) hay truyền (Transmit) màu sắc của riêng mình và ngăn chặn (Block) hay hấp thụ (Absorb) tất cả những màu khác.
Đôi khi, cũng sử dụng bộ lọc màu bằng thủy tinh. Bộ lọc thủy tinh thông thường nói chung bị giới hạn trong một phạm vi của màu sắc, tuy nhiên nó rất hữu ích cho các ứng dụng yêu cầu chịu nhiệt độ cao hay kéo dài độ bền của bộ lọc. Một thế hệ mới của các bộ lọc thủy tinh “lưỡng sắc” (dichroic) đôi khi cũng được sử dụng cho các ứng dụng ánh sáng giải trí, nơi rất cần thiết màu sắc sôi động sẽ không bao giờ bị phai mờ theo thời gian. Bộ lọc lưỡng sắc được thực hiện với công nghệ màng mỏng, có thể điều chỉnh được bước sóng nhất định. Bộ lọc lưỡng sắc được thực hiện với công nghệ màng mỏng, có thể điều chỉnh được bước sóng nhất định. Các bộ lọc này truyền đi một màu sắc cụ thể và phản chiếu lại tất cả những màu sắc khác. (Không giống như các bộ lọc thông thường, hấp thụ nhưng không phản chiếu lại các bước sóng không mong muốn).
 
8. Định hướng và dịch chuyển (Direction and Movement):
* Định hướng: Hướng của ánh sáng là một trong những thuộc tính quan trọng nhất trong thiết kế ánh sáng sân khấu. Tất cả ánh sáng đều được định hướng. Một ngọn nến trần tỏa ánh sáng ra tất cả các hướng. Một đèn spotlight sân khấu tỏa ánh sáng theo một hướng rất cụ thể. Trong tự nhiên, hầu hết ánh sáng đến từ bầu trời từ trên cao. Ánh sáng trong nhà hát cũng thường có đúng như vị trí ánh sáng này nhất là trên sân khấu hay khán giả.
Ánh sáng thấp đằng trước thường được coi là “phẳng” (flat). Ánh sáng góc độ rất cao có thể tạo ra những khoảng tối trên khuôn mặt của diễn viên. Ánh sáng từ nhiều hướng có thể thêm độ “tạo hình” (plasticity) và kích cỡ cho một diễn viên. Ánh sáng từ “đường viền ban công” có thể thêm bóng trên khuôn mặt của diễn viên, tuy nhiên vị trí này cũng có thể tạo ra bóng trên phông nền phía sau sân khấu hay phông cảnh. Góc độ ánh sáng rất thấp luôn luôn được kết hợp với ánh sáng nhân tạo và thường chỉ được sử dụng cho ánh sáng kỹ xảo. Đèn chân (footlight) đã phổ biến ở nhiều nhà hát, ngày nay hiếm khi được sử dụng. Rõ ràng là khi thiết kế ánh sáng phải chọn hướng ánh sáng rất cẩn thận.
Trong nhà hát, cũng giống như trong tự nhiên, “sàn” (floor) phản chiếu một số ánh sáng từ bên dưới, thường để tạo bóng. Chất lượng màu sắc và phản xạ của sàn sân khấu rất quan trọng và vì lý do này nó luôn luôn được lựa chọn với sự hỗ trợ từ người thiết kế ánh sáng.
Nhiều điều thú vị, đặc tính của ĐỊNH HƯỚNG không thực sự xem xét bởi McCandless là một trong những “phẩm chất của ánh sáng” trong “Đề cương của ánh sáng sân khấu, 1964” của mình. Ông đã thảo luận về (một thời gian ngắn) tầm quan trọng của hướng để tạo hình các đối tượng và vị trí thực tế của nguồn sáng.
* Dịch chuyển:
Dịch chuyển trong ánh sáng thường được thực hiện, có nghĩa là bất kỳ sự thay đổi theo CƯỜNG ĐỘ, DẠNG THỨC, MÀU SẮC hay ĐỊNH HƯỚNG. Thay đổi năng động trong tất cả những phẩm chất này diễn ra trong tự nhiên một cách thường xuyên, dịch chuyển cũng có thể bao gồm các chuyển động vật lý của một nguồn, chẳng hạn như đèn tìm kiếm, đèn hiệu cảnh sát, bánh xe màu, hiệu ứng quang học đặc biệt, máy chiếu phim …
Dịch chuyển có thể rất nhanh hay huyền ảo, chậm và khó nhận ra. Như vậy có thể là trường hợp của một người thiết kế tạo ra ánh sáng mặt trời thay đổi chậm từ một bên của sân khấu sang bên kia trong suốt thời gian diễn. Khán giả không thể nhận thấy sự thay đổi, tuy nhiên, họ có thể “cảm thấy” kết quả của sự thay đổi về mặt cảm xúc. Một ánh sáng bình minh hay hoàng hôn cũng có thể thay đổi chậm và sự dịch chuyển của ánh sáng khó nhận thấy và khán giả chỉ có thể cảm nhận được kết quả và trên thực tế đã không nhìn thấy nó.
Cho đến gần đây, dịch chuyển đã có thể tận dụng ít nhất là chất lượng của ánh sáng, do người thiết kế ánh sáng sân khấu. Tất cả chuyện này thay đổi từ những năm 1980 khi các thiết bị ánh sáng tự động được sản xuất. Các thiết bị tự động hiện đại có thể di chuyển hướng vật lý, chùm tia sáng của nó từ một vị trí của sân khấu này sang vị trí khác. Ngoài ra, thiết bị tự động có thể di chuyển từ một màu hay bánh xe kỹ xảo sang những cái khác, ở bất kỳ tốc độ nào. Những thay đổi và sự kết hợp về cường độ, dạng thức, màu sắc, phân phối và dịch chuyển là vô tận.
 
9. Ngôn ngữ của ánh sáng:
* Ánh sáng mà không có ánh sáng:
Người thiết kế ánh sáng phải hình dung ra được các hình ảnh từ đâu đến. Họ phải có khả năng nhìn thấy được ánh sáng cuối cùng trong tâm trí của mình, từng cảnh (scene) một, rất lâu trước khi sản xuất ra tác phẩm. Thiết kế ánh sáng chỉ la tiến trình “đảo ngược công nghệ” của hình ảnh trí tuệ này và đưa nó vào thực tế.
Những người thiết kế ánh sáng phải học để thảo luận và biểu thị hình ảnh trực quan với các từ ngữ (word), biểu hiện (render) và tài liệu tham khảo để hiểu về nghệ thuật, lịch sử, thời đại và phong cách. Đây là một phần quan trọng của tiến trình thiết kế truyền thông. Khi thiết kế ánh sáng, thường là một quá trình hợp tác bắt buộc những người thiết kế phải tìm hiểu để giải thích đề xuất thiết kế của mình cho người khác để bảo đảm rằng hình ảnh của mình là thích hợp và thực hiện đúng cách.
Điều đó rất quan trọng để học cách sử dụng các thuật ngữ về TẦM NHÌN, TỰ NHIÊN, THÀNH PHẦN, TÂM TRẠNG, ĐỘ SÁNG, DẠNG THỨC, MÀU SẮC, DỊCH CHUYỂN, PHÂN PHỐI và ĐỊNH HƯỚNG. Các thuật ngữ và khái niệm này dưới dạng thức từ vựng cơ bản cho bất kỳ người thiết kế ánh sáng nào và họ phải làm chủ được nó đầy đủ và hiểu nó tường tận.
Chất lượng ánh sáng như phát quang (luminescent), trắng đục (opalescent), trong mờ (translucent), trong suốt (transparent), lân quang (phosphorescent), huỳnh quang (fluorescent) hay chẳng hạn như quang phổ (spectral), khúc xạ (refractive), phản chiếu (refective), mờ xỉn (matter) và khuếch tán (diffuse) cũng hình thành một phần của sự hiểu biết và từ vựng của bất kỳ người thiết kế ánh sáng nào.
* Các công cụ thông tin khác:
Một bộ sưu tập các “bức tranh” sao chép lại có thể là một công cụ thiết kế, công cụ giảng dạy và công cụ truyền thông tuyệt vời. Nhiều tác phẩm Bậc thầy “Old Masters” với sự chú ý đến từng chi tiết về ánh sáng đáng kinh ngạc. Một thí dụ đán chú ý bao gồm: Claude Lorraine, Georges de La Tour, Rembrandt, Renoir và những người khác. Sử dụng tác phẩm nghệ thuật với một quá trình nghiên cứu và nói với nó là có thể xác định dễ dàng và thảo luận một số lượng lớn các phẩm chất ánh sáng khác nhau: phong cách, tâm trạng và cảm xúc.
Thiết kế ánh sáng cũng có thể sản xuất phác thảo hay biểu hiện ra hay sử dụng các chương trình CAD (máy tính hỗ trợ thiết kế) để hỗ trợ trong quá trình thảo luận về ánh sáng. Mặc dù còn xa mới hoàn hảo, nhiều chương trình CAD cung cấp hình ảnh thực tế với ánh sáng rất chính xác và cụ thể. Là một trợ giúp cho việc thiết kế, những công cụ này có thể chứng minh là rất hữu ích, tuy nhiên tất cả đều dựa trên thiết kế đầu tiên để có một vốn từ vừng về các mục tiêu và những phẩm chất của ánh sáng.
 

0976984729