Ngôn ngữ của màu sắc (Phần 1)
* Các mô hình (modèles) màu sắc:
Các mô hình thể hiện màu sắc đã có từ nhiều thế kỷ trước, nhưng một mô hình thực sự đi từ nghiên cứu khoa học và có mang tính họa hình được tạo bởi Newton năm 1702, từ đó đến nay rất nhiều mô hình khác được sinh có dạng từ 2D đến 3D và được dùng cho nhiều mục đích khác nhau
1- Vòng tròn của Newton: 7 màu cầu vồng được xếp liên tục teo thứ tự trong một vòng tròn, sự liên hệ giữa các sắc màu trở nên có luật lệ và rõ ràng. Mô hình này rất hữu ích để hiểu sự phối hợp hài hòa và cân bằng của màu sắc, là công cụ cơ bản của lý thuyết màu sắc.
2- Vòng tròn phổ màu: sự chuyển tiếp các màu mang tính liên tục, màu đỏ tương ứng với o° được đặt lên trên cùng.
3- Tam giác Delacroix: 3 màu cơ bản trong hội họa được đặt trên 3 đỉnh tam giác, nối với nhau bởi 3 màu thứ cấp bậc 2 (tạo ra bằng cách trộn 2 màu cơ bản tương ứng).
4- Ngôi sao màu của Blanc: 1867, mối tương quan giữa 3 màu cơ bản, 3 màu thứ cấp bậc 2 và 6 màu thức cấp bậc 3.
5- Vòng tròn của Mulsell: 1905, họa sĩ Mỹ Albert Munsell tạo ra mô hình từ 5 màu cơ bản: đỏ, vàng, xanh lá cây, xanh dương, màu tía (poupre) và 5 màu trung gian, được làm cơ sở cho mô hình 3D Musell, mô hình này vẫn được dùng bởi GregtaMacbeth.
6- Vòng tròn của Ostwald: 1916, nhà hóa học đức Wilhem Ostwald tạo ra mô hình 25 màu tạo ra từ các màu được cảm nhận: đỏ, vàng, xanh lá cây và xanh dương, màu xanh lá cây được coi là cơ bản dưới góc độ cảm nhận thị giác.
Mô hình màu 3D Lab*: Được tạo ra năm 1976 từ hội nghị quốc tế về chiếu sáng, mục đích là thể hiện được tất cả màu sắc có thể nhận biết được cũa thị giác, mô hình này dùng 3 giá trị: sắc màu (teint), độ bão hòa (độ tinh khiết, saturation, màu càng tinh khiết thì càng tươi) và độ sáng. Đây là một mô hình rất rộng và bao hàm các mô hình khác, ta có thể hình dung một vòng tròn 2D thể hiện các sắc màu, khi chuyển vô tâm thì độ bão hòa giảm dần, vị trí màu trên vòng tròn đựơc hiển thị bằng 2 giá trị: a (theo trục đỏ-xanh lá cây) và b (theo trục xanh dương-vàng) tất cả các giá trị 2D đó được cộng thêm giá trị cường độ sáng theo trục vuông góc vòng tròn thành ra 3D.
Thực tế luôn có sự xung đột giữa các mô hình màu dựa trên ánh sáng phản chiếu và mô hình dựa trên ánh sáng trực tiếp: Newton bắt đầu từ màu quang phổ (ánh sáng trực tiếp tách ra khi qua thấu kính) trong khi nhiều lí thuyết gia khác nghiên cứu trên màu của ánh sáng phản chiếu. Trong nhiếp ảnh digital, ta dùng cả 2 hệ thống, ánh sáng trực tiếp trên màn hình và ánh sáng phản chiếu trong in ấn. Thực chất cái vòng phổ màu của Newton ta thấy trên đây chỉ là mang tính phỏng chừng vì ta không thể in được trên giấy (màu ánh phản chiếu).
* Các sắc màu (teinte) cơ bản:
Khái niệm về các sắc màu cơ bản (các màu chính để tạo ra các màu khác) có từ rất lâu và thường bắt đầu từ các chất màu tinh khiết tìm thấy được trong thiên nhiên. Thời trung cổ màu vàng kim loại, màu đỏ và màu xanh dương được dùng nhiều nhất không phải dựa trên khái niệm pha trộn màu sắc mà chằng qua kim loại vàng, bột thần sa và đá da trời (outremer) sẵn có trong thiên nhiên. Đến nay người ta thống nhất thành 2 hệ khác nhau, hệ ánh sáng trực tiếp có 3 màu cơ bản: Đỏ-Xanh dương-Xanh lá cây và hệ ánh sáng phản chiếu có 3 màu cơ bản khác: Đỏ-Vàng-Xanh dương.
+ 3 màu cơ bản của ánh sáng trực tiếp (Đỏ-Vàng-Xanh lá cây) được tạo ra bởi sự chiếu sáng trực tiếp (trên sensor, màn hình), kết quả pha trộn lẫn nhau sẽ cho ra màu trắng.
+ 3 màu cơ bản của ánh sáng phản chiếu (Đỏ-Vàng-Xanh dương) tạo ra bởi các chất màu in hoặc vẽ trên giấy, khi trộn lẫn với nhau sẽ ra màu đen, đây cũng là 3 màu cơ bản trong hội họa.
Trong hội họa, hầu như tất cả màu sắc được phát sinh ra bởi sự pha trộn từ 6 màu sau: 3 màu cơ bản (Đỏ-Vàng-Xanh dương) và 3 màu thứ cấp bậc 2 (Cam-Xanh lá cây-Tím) cộng với các màu Trắng, Đen hoặc xám, vì nhiếp ảnh thừa hưởng các kiến thức từ hội họa nên ta sẽ lần lượt nghiên cứu các màu này, hơn nữa trong thế giới xung quanh ta phần lớn các màu sắc là kết quả của ánh sáng phản chiếu, chỉ trừ các vật phát sáng trực tiếp như mặt trời, các loại đèn…
* Độ bão hòa (saturation):
Các sắc màu “tinh khiết” hoàn toàn bão hòa, khi đó nó cho cường độ (màu) tối đa, thực tế trong cuộc sống các màu ít khi nào hoàn toàn bão hòa, chúng “dơ” hơn, xỉn hơn, thậm chí độ bão hòa = 0 (màu trắng, xám hoặc đen) vì vậy các màu “tinh khiết” luôn được dùng làm trọng tâm của một bức hình nếu ta tìm được chúng trong thiên nhiên. Trong thực tế ta có thể làm giảm độ bão hòa của một màu bằng cách pha thêm màu trắng, màu đen, xám hoặc một màu bổ sung (màu đối diện trong vòng tròn thể hiện màu sắc).
Thực tế, hiếm khi tìm được màu hoàn toàn bão hòa trong thiên nhiên, ngoài các loài hoa và một số sắc tố động vật, ngay cả bầu trời xanh không bão hòa như ta cảm nhận.
Khi cắt qua mô hình lab, các sắc màu đạt được độ bão hòa tối đa ở các cường độ sáng khác nhau, ví dụ trên hình cùng một cường độ sáng, màu vàng bão hòa hơn màu tím.
* Độ sáng (luminosité):
Cường độ sáng tối đa phụ thuộc vào sắc màu, màu vàng là màu sáng nhất, trái lại màu tím tối nhất, độ sáng làm màu sắc sáng lên hay thẫm lại, màu trắng và đen là 2 thái cực. Ta nên nhớ là một cường độ sáng tương ứng với 1 sắc màu, màu vàng chỉ tồn tại ở “tông” sáng, màu đỏ trở thành màu hồng và mất đi các tính chất của nó nếu bị sáng quá, màu xanh dương trái lại, phủ gần hết cường độ sáng (từ tối đến sáng ta vẫn cảm nhận được đó là màu xanh dương), màu cam có đặc điểm gần giống màu vàng và màu xanh lá cây gần giống màu xanh dương, còn màu tím là khó chịu nhất, nếu sáng lên một chút nó trở thành màu “lavande” còn thẫm hơn nó tiến gần màu xanh dương đậm.
Cường độ sáng trong nhiếp ảnh phụ thuộc vào sự đo sáng (exposition), bằng cách thay đổi nó ta sẽ rút ra được các hiệu quả khác nhau về màu sắc.
Cường độ sáng thay đổi tùy theo sắc màu, màu vàng luôn sáng, khi làm tối lại nó trở thành màu vàng đất, trong khi màu tím luôn luôn tối, nếu sáng lên nó trở thành màu tái, ta cũng thấy rằng màu vàng bão hòa sáng hơn màu tím bão hòa nhiều.
Sự giảm sáng một chút giúp tăng các sắc màu, nếu ta giảm sáng nhiều sẽ làm cho chúng tối lại và trở thành đen, ngược lại nếu tăng sáng quá đà sẽ làm mất đi các đặc điểm màu sắc, làm chúng trở thành “tái”.
Độ sáng của một vài màu có thể thay đổi tùy theo màu của nguồn chiếu sáng, màu xanh thẫm hơn nếu được chiếu bằng đèn dây tóc (giữa), sẽ giảm sút đi dưới ánh sáng mặt trời (trái) và ánh sáng đèn huỳnh quang (phải).
* Màu của ánh sáng:
Ánh sáng trắng của mặt trời là một phổ liên tục rất rộng bao gồm các sóng có bước sóng khác nhau, mắt người chỉ có khả năng bắt được một “đoạn” rất nhỏ trong phổ đó, từ bước sóng 380 nm (màu tím) đến 780 nm (màu đỏ). Một điểm lưu ý là mắt không thể phân tách được các bước sóng khác nhau (màu) khi chúng trộn lẫn với nhau mà chỉ thấy được như một màu. Khi có mặt đầy đủ các bước sóng trong phổ nhìn ta thấy ánh sáng màu trắng (áng sáng mặt trời lúc giữa trưa), còn lúc mặt trời lặn ta thấy màu đỏ-cam vì khi đó chỉ tồn tại các bước sóng từ 570 đến 620nm.
Phổ ánh sáng rất rộng, đi lần lượt từ bước sóng lớn nhất đến nhỏ ta sẽ có: sóng radio, sóng micro onde, tia hồng ngoại (gần màu đỏ), ánh sáng thấy được (bắt đầu từ đỏ đến tím), tia cực tím, tia X và tia gamma. Film và sensor bắt được một phần tia cực tím nên mới có filtre UV để ngăn bớt vì nó tác động vô kết quả ảnh, cả về màu sắc và exposition (thấy được) mặc dù mắt người không thấy tia cực tím.
Mắt người có mức nhạy cảm khác nhau với các bước sóng khác nhau và hoàn toàn hợp lý khi nó nhạy cảm nhất với các bước sóng trung bình, giảm dần ra 2 cực (từ không thấy gì ở tia hồng ngoại, bất đầu cảm nhận được ở màu đỏ sau đó thấy rõ hơn màu cam, đến cực điểm màu vàng, rồi bắt đầu giảm dần ở xanh lá cây, xanh dương đến nhỏ nhất ở màu tím, sau đó lại không thấy gì ở tia cực tím - hình trên bên trái). Vì vậy ta thấy màu vàng luôn sáng, còn màu tím lại tối. Một lưu ý nữa là ngoài các tế bào hình nón cảm nhận ánh sáng và màu sắc (nhạy đối với bước sóng 600nm- màu vàng), mắt người còn có các tế bào hình que chỉ cảm nhận được cường độ ánh sáng mà không phân biệt được màu sắc, chúng chỉ hoạt động khi ánh sáng rất yếu và có độ nhạy lớn nhất đối với bước sóng 500 nm (xanh lá cây), vì vậy khi ánh sáng rất yếu thì ta cảm nhận tốt hơn màu xanh lá cây - hình trên bên phải.
Trước khi mặt trời mọc, sương mù trên sông Yamuna giữ lại chủ yếu màu xanh của bầu trời không mây, và màu magenta ngay đường chân trời hướng về phía mặt trời, ảnh chụp ngôi đền Taj Mahal ở khoảnh khắc đó cho một sự phối hợp giữa 2 màu trên.
* Nhiệt độ màu:
Nhiệt độ màu được dựa trên màu phát ra của một vật bị đốt nóng, tùy theo nhiệt độ nung của vật đó và được tính theo độ Kelvin. Một chất bắt đầu phát ra ánh sáng đỏ ở 1000 độ K, trở nên trắng ở 5000°K và chuyển sang xanh ở nhiệt độ cao hơn, nhiệt độ màu trên bề mặt của mặt trời là một màu trắng hoàn toàn. Việc này có vẻ trái với cảm xúc của chúng ta vì ta thường cảm giác màu đỏ “nóng” hơn màu xanh, máy kĩ thuật số dùng nhiệt độ màu trong việc tính white balance và đây là một điểm rất mạnh vì ta có thể thay đổi theo ý muốn, lúc trước chụp phim cần phải sử dụng nhiều loại phim khác nhau để chỉnh sửa nhiệt độ màu
Một vài thông số về nhiệt độ màu tương ứng với các nguồn sáng tự nhiên và nhân tạo.
Hình 1: Màu cam của đèn dây tóc trong nhà hắt ra tương phản với nhiệt độ màu rất cao (ánh xanh) của ánh sáng chiều tà trong một khu ở Tokyo.
Hình 2 chụp lúc sáng sớm ở New york, màu nóng của ánh sáng trực tiếp tương phản với màu xanh lạnh trong bóng râm phản chiếu bầu trời xanh
Một ngôi nhà sharker ở Kentucky chụp trong buổi sáng nắng đẹp, bóng đổ trên mái xuống tuyết có một màu xanh rực rỡ
* Phổ ánh sáng không liên tục:
Không như ánh sáng trắng ban ngày, ánh sáng của đèn huỳng quang và đèn khí đốt (thủy ngân, natri, xénon) chỉ chứa các đoạn hẹp sóng ánh sáng không liên tục nên sẽ cho màu trong các bức ảnh chụp. Chúng được sử dụng rộng rãi trong chiếu sáng công cộng trong nhà cũng như ngoài phố. Mắt người khi nhìn có khả năng “sửa sai” nên thực tế ta vẫn thấy ánh sáng trắng bình thường, nhưng bản phim hay sensor sẽ ghi nhận trung thực lại các màu sắc và thường gây nên vấn đề màu cần giải quyết. Với phim thì thông thường người ta dùng các kính lọc màu (filtre), còn máy ảnh kĩ thuật số chỉ đơn giản dùng “white-balance”, tất nhiên cũng còn tùy mục đính và cảm nhận của người chụp mà quyết định có sửa hay không hay trái lại tăng cường nó lên để tạo ra “ambiance” cho ảnh chụp. Sở dĩ mắt người vẫn cảm nhận màu trắng bình thường bởi vì chúng không phân biệt được sự khác biệt từng bước sóng khác nhau mà có khuynh hướng cộng chung lại một kết quả và bỏ qua các “lỗ hổng” bị thiếu trong phổ ánh sáng không liên tục.
Hình 1: Ngôi đền Vàng ở Amritsar, đèn thủy ngân chiếu sáng các nhà cửa khu phố xung quanh hồ cho ra màu xanh dương-xanh lá cây, tương phản với ánh sáng vàng đèn dây tóc của ngôi đền đã tạo ra vẻ đẹp cho bức ảnh.
Hình 2: Đèn projecteur khí natri tạo ra một ánh sáng vàng đặc biệt cho mặt tiền nhà “Grand palais” ở Bruxelles
* Màu sắc của vật:
Bản thân các vật xung quanh ta không có màu sắc, khi các sóng ánh sáng chiếu vào một vật thì tùy vô tính chất vật lý của vật liệu (Tần số dao động các điện tử, lực hấp dẫn của các nguyên tử đối với các điện tử đó) mà nó có các tác động khác nhau vớc các sóng ánh sáng khác nhau. Khi sóng ánh sáng trùng với tần số dao động riêng sẽ bị vật liệu hấp thu, nếu khác nhau thì chúng bị phản chiếu lại, còn nếu rất khác biệt thì sẽ xuyên qua vật liệu đó (vật liệu trong suốt), vì vậy tùy theo tính chất vật lý nó trên của bề mặt mà ta sẽ thấy các màu khác nhau. Nếu vật liện hấp thu hết các sóng ánh sáng ta sẽ thấy màu đen, phản chiếu lại hết sẽ cho ra màu trắng, còn phản chiếu một đoạn bước sóng đậc biệt thì ta sẽ thấy vật có màu của bước sóng đó, ví dụ trong hình dưới đây ta sẽ thấy vật màu đỏ cam vì nó phản xạ lại nhiều nhất các sóng màu đỏ và vàng.
Nếu dựa trên vòng tròn hiển thị màu sắc thì ta thấy sự hấp thu và tính phản xạ hoạt động mang tính trái ngược, phần lớn lá cây màu xanh lá bởi vì chúng hấp thu sóng ánh sáng đỏ (màu đối nghịch trong vòng tròn hiển thị màu sắc), bông hoa cúc màu vàng bởi vì cánh hoa hấp thu các sóng ánh sáng xanh dương và tím.
Vấn đề trở nên phức tạp hơn đối với nguồn sáng màu, với ánh sáng đỏ cam buổi bình minh thì màu lá cây trở nên rất tối bởi vì chúng hấp thu phần lớn tỉ lệ ánh sáng mà chúng nhận được (màu xanh lá có tính hấp thu sóng ánh sáng đỏ cam). Trong áng sáng màu của vũ trường nếu bác nào muốn sáng rực lên thì hãy chọn màu quần áo gần trùng với màu ánh sáng đó và ngược lại chọn màu đối nghịch.
Mở rộng vấn đề một chút: thay vì chiếu ánh sáng màu vô một cảnh thì ta có thể dùng các kính lọc màu trên máy, đây là cách thay đổi cường độ ánh sáng các màu khác nhau trong chụp ảnh trắng đen. Ví dụ để làm tối bầu trời xanh ta dùng các kính lọc có màu đối nghịch với màu xanh dương trong vòng tròn màu sắc, đó là các màu vàng - cam - đỏ, màu cam có tác dụng mạnh nhất vì nó đối diện nhất qua tâm vòng tròn. Kính lọc màu cam sẽ chặn bớt các tia màu xanh dương của bầu trời làm cho bầu trời sẫm lại, trái lại nó sẽ cho các sóng màu đỏ cam qua nhiều nhất khiến cho màu đỏ cũa bông, lá cây mùa thu rực sáng lên.
- Màu đỏ:
Về thị giác thì màu đỏ là một trong những màu đựơc “chuộng nhất”, nó lôi kéo người xem ngay tức khắc. Nếu đặt kế bên các màu “lạnh” hơn đặc biệt là màu xanh lá hay xanh dương thì màu đỏ sẽ “nhảy” lại gần người xem ngay tức khắc tạo nên hiệu quả “không gian” trong bức hình. Nó cũng là màu chứa năng lượng nhiều nhất và tạo lên một sự “rung động” rất mạnh khi đặt gần màu khác. Trái với màu vàng sáng và trong suốt, màu đỏ tương đối “đậm đặc”, màu vàng tỏa ra ánh sáng còn màu đỏ toát ra năng lượng. Về cảm xúc thì màu đỏ cho cảm giác sống, mạnh mẽ, nóng bỏng, gợi sự đam mê (bông hồng tượng trưng cho tình yêu), nhưng lại cũng hung tàn, nguy hiểm, đe dọa (tượng trưng cho chiến tranh, hủy diệt vì cùng màu máu). Là một màu tượng trưng cho quyền lực (các buổi lễ trọng thể luôn luôn có các tấm thảm đỏ), một biểu tượng của sự cấm đoán (đèn đỏ, biển cấm), tượng trưng cho cách mạng vì gắn liền với máu và chiến tranh. Trong một số nền văn hóa Á Đông màu đỏ rất được thích dùng kể cả Việt Nam (các ngày lễ tết, cúng kiếng…).
Trong nhiếp ảnh màu đỏ rất dễ kiếm trong cuộc sống hàng ngày cũng như thiên nhiên như màu hoa, động thực vật, áng sáng mặt trời bình minh hoàng hôn…
Hình 1: Bột màu Tilak dùng để sơn điểm đỏ trên trán rất phổ biến nên ta có thể tìm thấy được trong tất cả các chợ ở Ấn độ.
Hình 2: Nếu vật được chiếu bằng ánh sáng đỏ (filtre Wratten 25) sẽ cho ra một chất lượng màu đặc biệt, phần tối hoàn toàn đen nhưng phần sáng luôn luôn đỏ, không làm sáng vật lên được cho dù cường độ lớn đến đâu đi nữa.
Thoạt nhìn thì ai cũng yêu thích ngay hình này trước khi hiểu ra rằng đó là các khối huyết heo được bán trong một phiên chợ ở Lào.
- Màu vàng:
Màu vàng là màu sáng nhất trong các màu và đó chính là tính chất đặc biệt nhất của nó, màu vàng tối không tồn tại, nếu bị trộn với màu đen nó sẽ không còn là màu vàng nữa. Vì ta thường thấy màu vàng trên các nền màu sẫm hơn (vì sáng nhất chỉ thua màu trắng) nên trong các bức ảnh nó thường rực lên, đó cũng là lí do rất khó phối hòa độ sáng của màu vàng với các màu khác. Màu vàng cũng không được linh hoạt lắm bởi vì phải tinh khiết, chỉ cần ánh qua xanh hay đỏ một chút là biết liền. Tất cả các màu đều thay đổi tính chất khi được đặt kế nhau nhưng màu vàng đặc biệt “nhạy cảm”, giống như hình dưới đây cho thấy, nó rất “mãnh liệt” khi được đặt kế màu đen nhưng lại rất vô vị lạt lẽo khi gần màu trắng.
Màu vàng thể hiện sự chói lọi, mạnh mẽ, sự vui vẻ và ánh sáng. Trong thiên nhiên màu vàng tinh khiết khá hiếm, ta chỉ tìm thấy ở khối lượng nhỏ một số bông hoa, lá mùa thu, phần sáng của lửa, lòng đỏ trứng gà… Trong cuộc sống người ta dùng màu vàng khi muốn lôi kéo sự chú ý như các tín hiệu giao thông, hộp thư bưu điện, xe taxi…
Màu vàng của chai dầu bão hòa hơn màu vàng lá cây, nhưng cái phông đen của ngọn đồi ở Colorado làm cho màu lá rực và tươi lên. Cả hai cảnh đều được cố tình chọn ánh sáng “rétro” (chếch từ phía sau tới) nhằm thể hiện màu vàng được rực rỡ nhất.
Màu vàng cũng đóng vai trò quan trọng khi nó tái hơn và ít bão hòa hơn, thường do ánh vàng của nắng buổi sáng và chiều, màu vàng rực hơn khi khí quyển có bụi mù. Màu vàng tái của cái làng ở biên giới miến điện trên đây là kết quả của bụi tro do đốt rẫy, tro bụi làm giảm nhiệt độ màu sắc ngay cả khi mặt trời đã lên cao.
- Màu xanh dương:
Đây là một màu tĩnh lặng, khá tối và rất lạnh, nó rất phổ biến trong nhiếp ảnh và có nhiều biến tướng khác nhau. Về thị giác, màu xanh lùi ra xa và cho cảm giác thanh bình hơn màu đỏ rất nhiều, là màu tối nhất trong 3 màu cơ bản, khá mạnh mẽ khi thẫm lại. Tính trong suốt của nó khác biệt với độ đậm đặc của màu đỏ, rất linh hoạt: ta dễ dàng cảm nhận thấy nó tươi và tinh khiết hơn là thực sự nếu không có màu xanh khác kế bên để so sánh.
Màu xanh bão hòa là màu dễ tìm thấy nhất do tính khuyếch tán các bước sóng ngắn trong khí quyển, là lí do bầu trời không mây có màu xanh dương. Nước có tính hấp thụ lần lượt các màu sắc theo độ sâu bắt đầu từ sóng có bước sóng dài nhất (màu đỏ) vì vậy mặt nước thường có màu xanh lá cây chuyển sang xanh dương.
Một cảnh chụp bờ biển vùng Caraïbes, nếu nhìn biển từ góc độ thấp so với hìng không ảnh, mặt nước phản chiếu bầu trời nên sáng và tái hơn ở gần đường chân trời.
Khoảnh khắc tốt nhất để tìm màu xanh dương là ngay khi mặt trời lặn hay trước khi mặt trời mọc, khi ánh sáng phản chiếu lên bầu trời. Bức ảnh được chụp với chế độ “ánh sáng ban ngày” cho ra một khung cảnh lạnh lẽo và buồn thảm.
Một phòng đẽo ra từ băng đá trong một khách sạn ở
Thụy điển cho ra sắc màu xanh rực rỡ
- Màu xanh lá cây:
Màu của tự nhiên, màu xanh cũng là màu mắt người nhạy cảm nhất và ta có thể phân biệt được rất nhiều màu xanh lá khác nhau, tùy theo ngả sang phía màu xanh dương hay màu vàng mà màu xanh lá mang những đặc tính rất khác nhau. Khi ánh sáng rất yếu thì ta sẽ thấy rõ nhất nếu ánh sáng có màu xanh lá cây. Là màu của thiên nhiên nên từ đó cho ra những sự liên tưởng và biểu tượng mang tính tốt lành: màu của sự tăng trưởng, tiến bộ, tươi trẻ, thiên nhiên.
Rất phổ biến trong thiên nhiên, nhưng cũng rất khó tìm thấy màu xanh tinh khiết, ta cứ thử chụp thật nhiều màu xanh trong thiên nhiên rồi so sánh với mẫu màu xanh trong photoshop (đỏ=0, Xanh dương=0, Xanh lá=255) sẽ thấy. Phần lớn màu xanh lá giảm độ bão hòa do trộn với màu xám, nhưng lá cây ta cảm thấy tươi khi được chiếu bằng ánh sáng “rétro”.
Bất kể liên kết với các biểu tượng tốt, một bức ảnh nếu có một “tông” toàn bộ xanh lá lại được coi là ít hấp dẫn lôi cuốn, đôi khi liên hệ vớ sự thối rữa, ẩm mốc
Trong một buổi chợ sáng tại Moroni, màu xanh lá cây của những buồng chuối trộn lẫn với màu quần áo của người bán hàng. Trong xứ hồi giáo này màu xanh lá rất phổ biến do lí do tôn giáo.
Ánh sáng mặt trời chói lọi chiếu lên các tán lá cây trong một khu rừng vịnh Fundy được phản chiếu xuống mặt nước quanh các mỏm đá phủ rêu. Tốc độ chụp chậm làm mềm đi các gợn nước và làm giàu thêm màu xanh.
- Màu tím:
Sự phối hợp giữa màu xanh dương và màu đỏ rất khác biệt với các màu khác vì nó rất khó nắm bắt. Rất nhiều người rất khó khăn trong việc phân biệt màu tím tinh khiết. Trong nhiếp ảnh ta sẽ gặp phải các vấn đề từ sự thu nhận, thể hiện trên màn hình cho đến khi in ấn. Các gam màu trên màn hình và mực in rất không hiệu quả đối với màu tím. Màu tím nguyên chất rất tối, nếu sáng quá nó sẽ trở thành màu “lavande”, nếu sẫm hơn lại làm nhầm lẫn với màu xanh dương-đen. Nếu hơi ngả sang màu đỏ sẽ biến thành màu magenta, nếu ta lấy bớt ra chút đỏ thì lại trở thành xanh dương. Chính ranh giới giữa màu tím và màu đỏ là khó phân biệt nhất.
Màu tím liên hệ với sự xa hoa, tạo ra cảm giác bí ẩn và bao la, gợi nên “linh tính” và một thế giới xa lạ. Chính vì vậy màu tím được dùng nhiều trong tôn giáo.
Là một màu rất khó tìm thấy, một vài bông hoa có màu tím nhưng lại rất khó ghi nhận lại chính xác. Ánh sáng trước khi mặt trời mọc và sau khi mặt trời lặn đôi khi cho ra màu tím (sự trộn lẫn đỏ cam của ráng nắng và màu xanh của bầu trời).
Ảnh các dãy trồng hoa Lavande ở Provence-Pháp,
đó cũng là tên của một gam màu tím
Hoàn hôn và bình minh cho ra gam màu khá rộng lớn tùy theo các điều kiện thời tiết khác nhau, kết quả thường rất bất ngờ. Ảnh chụp bờ biển Đông-Nam Nhật bản, 2 mỏm đá nổi tiếng tên Meoto-Iwa nối với nhau bằng một sợi thừng được chiếu rétro bởi bầu trời tía lộng lẫy, ảnh nguyên gốc hoàn toàn không được sửa lại.
- Màu cam:
Màu cam là một màu rực rỡ, nó được liên hệ chặt chẽ với ánh sáng do sự đốt nóng. Do pha trộn từ màu đỏ và vàng nên cũng mang một số tính chất của 2 màu đó. Màu cam rất sáng và mạnh khi nguyên chất, khi sáng lên sẽ trở thành màu “beige”, sẫm xuống thì trở thành màu “maron”.
Gắn liền với các ngày lễ, nhưng cũng biểu tượng của sức nóng và khô cằn.
Ta tìm thấy màu cam ở một số loài hoa, trong ánh sáng đèn tungstène, lửa nến . Khi chụp ảnh phim người ta hay dùng filtre 85B standard (màu cam) với phim type B trong ánh sáng ban ngày để bù trừ “tông” xanh dương vốn có của phim.
Trong Shinto Nhật, màu cam ngả sang đỏ là một màu thiêng liêng. Trong ảnh màu cam được sơn trên các cổng Torii trên lối vào một ngôi đền.
Mặt trời lặn phản chiếu xuống dòng nước đục của sông Mekong
ở Viêng chăn cho một màu cam đỏ.
- Màu đen:
Màu đen không có ánh sáng và “tông”, trong nhiếp ảnh người ta tạo ra màu đen bằng cách giảm sáng. Khi tinh khiết, màu đen không hề chứa một chi tiết nào tuy nhiên nó rất quan trọng cho mật độ và sự phong phú của bức ảnh. Màu đen rất cần thiết để tạo sự tương phản với các màu khác bởi vì nó là cực điểm của sự đậm đặc và đồng nhất. Thường màu đen dùng làm nền, tả hình thể đường nét (chụp ngược sáng), hoặc để chấm phá. Màu đen không nên quá đậm đặc, vả lại khi in lên giấy cũng bị giảm nhiều và trở thành màu xám rất đậm. Màu đen thường phải có trong các bức ảnh để tạo nên những điểm “neo” cho các tông màu khác. Một số bức ảnh không cần màu đen khi muốn thể hiện sự tinh tế nhẹ nhàng các tông màu (ảnh chụp một cảnh sương mù) nhưng đa số đều cần có một phần đen tuyệt đối trong các bức ảnh. Sự dư sáng, độ contrast yếu hay sai lầm khi xử lí ảnh KTS là “kẻ thù” của màu đen.
Tuy nhiên để thu nhận được các chi tiết trong vùng đen phải phân biệt được sự khác nhau rất nhỏ (từ 0 đến 20 trong ảnh 8bits trên thang 0-255). Sự tinh tế tinh vi trong các bức hình của màu đen trên nền đen rất thú vị để khám phá và cũng là một thử thách. Trong hội họa Manet đã tìm ra cái mà Matisse gọi là “một màu đen minh bạch và sáng sủa”.
Khi màu đen sáng lên thành màu xám, khi đó nó rất nhạy cảm với tính trung dung (neutralité) hay không, chỉ cần một chút ánh màu vô là thấy liền. Các màu đen của bóng đổ trong các bức ảnh chắc chắn chứa đựng một tông màu nào đó.
Màu đen cho sự liên hệ và biểu tượng với tính trung dung. Nó cũng gắn liền với sự giàu có và thanh lịch (màu quần áo cũa giới quí tộc thế kỉ 16, 17).
Để thu nhận được “hình nét” (sihouette), cần phải có nền sáng trong khi cận cảnh chìm trong tối như trong bức hình chụp một sư chùa Swedagon ở Rangoon. Một màu đen tuyệt đối sẽ tăng cường chất lượng cho hình nét vì thế đã dùng pipette của điểm đen (photoshop) để tăng hiệu quả.
Một biết thể của “Con mèo đen trên đống than đen” (tên một tác phẩm hội họa), ảnh chụp con thiên nga đen trên nền đen phụ thuộc vào ánh sáng trắng và màu xám tái để tạo nên một hình thể có thể thu nhận được.
- Màu trắng:
Về lý thuyết, màu trắng không màu và không có “tông”, thế nhưng thực tế lại là màu tinh tế nhất, nó đóng vai trò quan trọng trong hầu hết tất cả các ảnh. Ngay cả một vật hoàn toàn đen cũng cần các sắc sáng và sự lồi lõm để có thể định dạng được. Một bức ảnh trắng cũng cần có sự biến chuyển của sắc xám nhẹ để tạo hình. Chính cái sắc xám nhẹ ấy rất nhạy cảm đối với màu (còn hơn màu đen) và rất khó có một màu trắng hoàn toàn trung tính. Màu trắng cần một sự đo sáng rất cẩn thận và càng quan trọng hơn khi chụp máy KTS so với máy phim. Thiếu sáng một chút sẽ tạo nên một bức ảnh “dơ”, trái lại dư sáng một chút sẽ hủy tất cả chi tiết tinh tế. Phim chụp có tính phản ứng không tuyến tính đối với sự đo sáng (đường biểu thị cong tịnh tiến đến cực) nên ngay khi bị dư sáng nhiều nó cũng giữ được một chút chi tiết. Nhưng con sensor của máy ảnh KTS phản ứng tuyến tính theo exposition nên các photosites của CMOS và CDD tiếp tục thu nhận thông tin tỉ lệ thuận cho đến khi đạt ngưỡng cao nhất, khi đó bị đầy và sẽ không tiếp tục thâu nhận thông tin được nữa . Vì vậy một ảnh KTS dễ dàng mất đi các chi tiết khi dư sáng.
Màu trắng trung tính và thường làm biểu tượng cho sự tinh khiết, liên tưởng với sự xa vời thậm chí vô cực.
Sự đo sáng mang tính quyết định đối với các chủ thể màu trắng hay đen, nếu ta có chút thời gian thì braketting khuyên dùng. Thông thường, nếu không điều chỉnh, một bức ảnh như thế này cần ít nhất thêm 1 f-stop.
Một áo blouse treo trên tường trong ngôi làng Shaker, một nghiên cứu về màu trắng nhưng chính các bóng mới tạo nên hình, chúng cho ra “tông” và quyết định sự đo sáng.
- Màu xám:
Màu xám tinh khiết là bản chất của sự trung tính, nó “bóp ngạt” cảm giác màu sắc theo tỉ lệ không gian mà nó chiếm, nó cũng rất quí giá để làm hiện hình các màu tinh tế nhất. Màu xám trung bình phàn chiếu lại 18% lượng áng sáng chiếu đến nó và đóng vai trò quan trọng trong sự đo sáng. Sự tăng sáng của màu đen và giảm sáng của màu trắng cho ra các sắc thái xám khác nhau. Số lượng màu xám hầu như vô tận vì không chỉ đi từ trắng đến đen mà còn có thể nhẹ nhàng có ánh màu khác.
Màu xám làm liên tưởng đến sự nặng nề, cơ học máy móc, màu xám-xanh dương diễn tả sự lạnh lẽo, màu xám-đỏ lại cho cảm giác nóng. Là màu của đá nên màu xám gắn bó với sự vững chắc và trọng lượng.
Màu xám dễ tìm thấy trong thiên nhiên (đá, mây nặng, mặt nước trong những ngày tối) và trong môi trường con người (bê tông, xi măng, đường xá, nhà cửa …)
Bờ biển ở Massachusetts mùa đông, bầu trời màu chì
đã bóp nghẹt hoàn toàn các màu sắc
Đây là công trường đá Toscanes mà ta khai thác
được loại đá cẩm thạch trắng Carrare
Ở vùng đất phật linh thiêng Anaradhapura (Sri Lanka), dải phù điêu các con voi gác chính điện làm bằng xi măng cho một màu xám trung tính
Vì tính “trung tính” của màu xám mà ta rất nhạy cảm với sự chính xác của nó, ít nhất đó là chúng ta tưởng vậy. Hãy hỏi hai người chỉ ra một màu xám hoàn toàn trung tính, chắc chắn là họ sẽ không đồng ý lẫn nhau. May mắn là trong nhiếp ảnh KTS ta có thể đo đạc chính xác độ trung tính màu xám bằng cách đo các giá trị Đỏ-Xanh dương-Xanh lá cây bằng photoshop, nếu chúng bằng nhau thì màu xám hoàn toàn trung tính, còn nếu một giá trị màu nào hơi lớn hơn thì màu xám ngả về phía tông màu đó.
Đây là một ví dụ về việc nên giữ lại một sắc màu tinh tế hơn là làm chúng trở thành màu xám trung tính,ánh xanh tái một cánh đồng nước Anh dưới đường dây điện cao thế tạo lên cảm giác lạnh lẽo ẩm ướt một buổi sáng mùa đông.
Khi chúng ta chụp một màu xám gần trung tính, cách tốt nhất phải nên nhớ lại trong đầu chính xác ánh màu của nó. Bùn mà các con voi ở Etosha này đang dầm mang một chút ánh xanh, nếu tôi (Micheal Freeman) không ghi nhận lại có lẽ đã sửa thành màu xám trung tính rồi.
Nguồn:Xman dịch của Micheal Freeman
>>> Màu sắc áp dụng trong tả thực và trang trí
>>> Màu sắc và hình học cơ bản