Tác phẩm “Mùa thu ở Argenteunil, 1873”
Monet vốn là một tay ký họa tự do, chứ không phải họa sĩ “chính quy” (theo nghĩa Hàn Lâm).
Từ khi được cơ hội chiêm ngưỡng tranh phong cảnh bãi biển của Boudin, ông phát huy bút pháp thần tốc bằng sơn dầu biểu hiện sự sống hối hả của sinh hoạt hiện đại và hiện tượng màu sắc biến đổi từng giây phút của ánh sáng ngoại cảnh. Bức tranh đầu tiên xứng “họa phẩm” của Monet là “Bữa sáng trên thảm cỏ (1865-1866) trùng tên với tác phẩm của Manet” Déjeuner Sur L’Herbe. Ai cũng cho rằng ông chịu ảnh hưởng của Manet nhưng không phải ai cũng thấy rằng Monet và cả Manet đều hấp thụ tinh hoa của tranh in mộc bản Nhật.
Mộc mạc, chất phác và cấp thời đó là lý tưởng nghệ thuật của Monet. Không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà ông chọn cảnh mây nước, nắng trời. “Bèo dạt mây trôi”, từ đông sang tây đều biểu hiện tính cách trôi nổi bồng bềnh, lý vô thường trong sinh hoạt trời, đất và con người. Nó chính là ý nghĩa tượng trưng trong chữ “Ukiyo-e” của tranh mộc bản Nhật.
Qua Monet, cuộc giao lưu nghệ thuật Đông Tây đã bắt đầu nảy nở. Phu nhân Monet đã xuất hiện trong quốc phục Nhật Bản ở tranh Monet.
Từ Monet và trào lưu Ấn tượng, nhiếp ảnh cũng đóng góp một yếu tố quan trọng vào quyết tâm chuyển mình lột xác của hội họa Tây phương. Tất cả đều rơi vào quỹ đạo của tốc độ, Thời hiện đại không thể vượt thoát tốc độ của máy cũng như vũ trụ tự nhiên luôn luôn biến ảo vô thường.
Biệt tài tốc họa của Monet hiển nhiên là hợp cảnh, hợp thời.
Bảng màu của Monet thực là đơn giản. Ông giới hạn nó trong vòng màu Xanh đại dương/ cobalt + vàng/ cadmiums. Tuy có màu ngọc thạch và lục/ viridian, nhưng chỉ là màu phụ.
Sơn xám nhạt trên nền vải mịn còn để lộ sớ vải
Phác họa từng mảng định hình và màu trên bố cục
Tô thêm màu đục lên trên nhưng không che bít các mảng bố cục
Pha màu bằng cách tô sơn ướt lên chỗ ướt và cả chỗ se khô
Đan màng lưới màu bằng cách phết sơn bằng cọ to bản, lớp ướt trên khô
Ánh sáng đẹp mắt nhờ cách quệt cọ màu đa dạng và nổi dày lên.
Mặt sơn thô nhưng đẹp mắt – nhờ cách quệt cọ màu đa dạng và nổi dày lên.
Nền xám nhạt tỏa sáng tạo ảo giác ánh nắng trong tranh. Khởi sự, Monet đắp màu đục rồi phết trắng ngay lên nền. Ông tuần tự đắp từng lớp màu, thận trọng nhưng đường tay phóng khoáng.
Không bao giờ Monet tùy tiện bịt kín lớp sơn dưới hoặc phủ kín sơn nền. Do đó dù tranh vẽ công phu đến đâu, Monet vẫn chủ ý duy trì những đường nét phóng khoáng để biểu thị ấn tượng sơ khai, nguyên thủy.
Mặt sơn phong phú do nét cọ biến thiên vô cùng phóng khoáng. Cây, nước, trời mây và nhà cửa xa xa, tất cả đều tùy thuận vị trí, kích thước rộng hẹp mà tiếp nhận sơn màu dày mỏng. Tuy nhiên, tất cả đều đầy đặn, toàn thể mặt tranh đều được “chiếu cố” vô cùng thoải mái, vô tư và bình đẳng.
Nét sơn nhỏ dần biểu thị độ xa về phía chân mây. Vệt xanh chia bức tranh ra làm bốn phần bằng nhau, có thể khiến họa sĩ cổ điển phẫn nộ, nhưng Monet nhất định không nhượng bộ trong ý hướng thiết lập không gian phẳng vượt lên mọi quy ước không gian ba chiều giả tạo của hội họa cổ điển.
Những vệt tương phản màu dày mỏng hợp tấu cùng những nét sơn ngang dọc – tất cả hình ảnh trười nước, cỏ cây tương ứng hòa hợp, phản chiếu lẫn nhau một cách thâm tình.
Cây là và mây trời – chỗ sơn khô sơn ướt cùng nét cọ tung hoành ngang dọc
– tất cả gây ấn tượng sâu đậm khó tả cũng khó mà quên được.
>>> Tranh Phong cảnh - Ấn tượng thập niên 1870 (Phần 1)
>>> Tranh Phong cảnh - Ấn tượng thập niên 1870 (Phần 2)