Màu đen trong tranh sơn dầu
Cuối thế kỷ XIX, các bậc thầy vẫn sử dụng màu đen, các họa sĩ Ấn tượng là những người chủ trương loại màu đen và tất cả các màu đất ra khỏi palette. Từ đó mới có quan niệm nhầm lẫn, mà hầu hết các thầy dạy vẽ ở ta đều rao giảng là không nên dùng màu đen. Pha màu bổ túc không bao giờ ra được màu đen, mà chỉ được màu tối nhờ nhờ. Đó là lý do vì sao bóng tối trong nhiều tranh của các họa sĩ Ấn tượng thường nông và bẩn.
Bảng màu của Jan Van Eyck và các họa sĩ Flemish thường chỉ có 8 màu:
1 – trắng (chì – màu đục)
2 – đen (than xương hoặc thực vật – màu đục)
3 – lam (lapis lazuli và azurite – màu trong)
4 – đỏ (vermilion – màu đục, hồng thiên thảo – màu trong)
5 – tím (azurite trộn với hồng thiên thảo – màu trong)
6 – vàng (chì thiếc – màu đục)
7 – lục (auzrite trộn với vàng chì thiếc – màu đục, muối đồng hòa tan trong Venentian turpentine – màu trong).
8 – nâu (đất và vàng đất – màu đục)
Caravaggio dùng màu đen rất đẹp, màu đen nguyên chất thật sự, ví dụ như đoạn ruban Bacchus cầm trên tay phải, tóc của Bacchus, hay màu đen trên mũ và áo chàng thanh niên trong “Thầy bói“. Nghiên cứu của National Gallery ở London cho thấy, trong bức “Bữa tối tại Emmaus” (bản tại National Gallery), Caravaggio đã dùng màu đen nguyên chất phủ lên màu lục.
Caravaggi
Bacchus (1595)
Uffizi
Caravaggio
Bà thầy bói (1594)
Musei Capitolini, Rome
Caravaggio
Bữa tối ở Emmaus (1601)
National Gallery, London
Tiết diện mẫu thử từ bức “Bữa tối ở Emmaus”
của Caravaggio (Bản tại National gallery)
cho thấy một lớp sơn gồm đỏ ochre và đen.
El Greco, Rembrandt, Velázquez, Goya, đều là những đại cao thủ dùng màu đen. Palette của Vermeer thường có 8 màu là (1) trắng chì, (2) vàng chì-thiếc, (3) vermilion, (4) hồng thiên thảo, (5) lục đất, (6) lam lapis lazuli, (7) umber sống, (8) đen ngà voi hoặc đen xương.
Trong bức “Cô gái đeo hoa tai ngọc trai”, Vermeer đã vẽ nền bằng màu đen xương (bone black), sau đó láng vàng diệp hoàng tố (weld, luteolin, reseda ruteola) và chàm (indigo) lên, tạo ra một nền tối, có sắc lục, trong và sâu [1].
Édouard Manet (1832 – 1883), người rất mê Velázquez, là một trong những danh họa cuối thế kỷ XIX ưa dùng đen ngà voi.
Salvador Dalí từng nhận định: “Trong hội họa, các màu đen là những màu trong nhất, không phải về mặt vật lý mà trên phương diện độ tinh tế trong các sắc thái của chúng. Thế nên các đại cao thủ hoà sắc như Velázquez đã không ngần ngại dùng nó để vẽ những sắc độ da thịt thuần khiết một cách thanh nhã nhất và thiên đường nhất.”
Diego Velázquez
Chân dung Juan Pareja (1650)
Metropolitan Museum of Art, New York
Johannes Vermeer
Cô gái đeo hoa tai ngọc trai (kh. 1665) Mauritshuis, The Hague
Édouard Marne
Âm nhạc trong vườn Tuileries (1862)
Dublin City Gallery
Một trong những sáng tạo vĩ đại nhất trong phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp của các bậc thầy cổ điển là việc tách quy trình vẽ tranh thành hai giai phần: vẽ lót đơn sắc (monochrome underpainting) và lên màu (overpainting in colors). Trong phần vẽ lót đơn sắc, toàn bộ hình khối, sáng tối, đậm nhạt được giải quyết gần như xong. Vẽ lót đơn sắc dùng tông xám (đen trộn với trắng) được gọi là grisaille (gris trong tiếng Pháp có nghĩa là xám). Các lớp vẽ lót tông khác màu xám, như brunaille có tông nâu (brun: nâu), verdaille, có tông lục (vert: lục), được gọi chung là camaïeu. Sau đó, khi lên màu, họa sĩ chỉ tập trung giải quyết hòa sắc, không phải vướng víu với sửa chữa hình khối và sáng tối nữa. Bóng đổ được hoàn thành trong khi vẽ lót, bằng lớp mỏng, thường là màu đen, umber, lục đất, hay đỏ đất. Sau đó, trong khi vẽ màu, họa sĩ láng các lớp màu trong lên trên. Vì thế bóng tối trong tranh của các bậc thầy cổ điển thường nhẹ, trong và sâu.
Dallí cũng từ nói: “Hòa sắc của một họa sĩ giỏi được dựa hoàn toàn trên cách sử dụng các sắc độ ấm và lạnh một cách nhịp nhàng và êm ái. Hãy hiểu rằng người ta biết ngay liệu bạn có phải một đại cao thủ hòa sắc hay không, và đó chính là cách chắc chắn nhất để biết, qua việc cho bạn vẽ một bức tranh chỉ với đen và trắng, trong một màu, được gọi là vẽ đơn sắc, hoặc camaïeu.”
Trích đoạn grisaille bằng đen ngà voi trộn trắng chì
trong bức tranh “Truyền tin” (2017) của Nguyễn Đình Đăng
Trong số các màu đen, đen ngà voi (Ivory Black, PBk 9) là màu đen đẹp nhất, được dùng từ thời Cổ Đại, như từng được Pliny chứng giám .
Ngày nay do giá thành cao và voi được liệt vào danh sách các động vật có nguy cơ tuyệt chủng, hầu hết màu có tên “đen ngà voi” trên thế giới thực chất là đen xương (bone black), được làm từ than xương bò hoặc ngựa. Hãng Holbein Japan là một trong số rất ít hãng họa phẩm còn sản xuất đen ngà voi từ ngà voi thật.
Đen ngà voi (Ivory Black) của Holbein Vernét.
Năm chữ Hán ở dòng thứ hai trên nhãn tube ghi: chân chính tượng nha thán,
tức “than ngà voi đích thực”.
Tốc độ khô cấp II: sau 3 ngày. Đục. Độ chịu sáng: 4 sao.
Từ trắng chì sang đen ngà voi (thật)
Nhận xét:
1) Đen ngà voi Vernét là màu đen rất đẹp, đục, có độ chịu sáng cao (4 sao) và khô sau 3 ngày. Trộn với trắng chì, đen ngà voi Vernét cho tông trung màu xám lam, rất mịn, có độ phủ cao, vì thế dùng để vẽ lót rất tốt. Đặc biệt không nên trộn những màu trong như nâu đất sống (raw umber) với đen ngà voi Vernét khi vẽ lót vì hỗn hợp sẽ mất độ phủ, dễ bẩn và lầy lội.
Nhận xét này không đúng với Ivory Black được làm từ xương bò ngựa của các hãng khác, thường là màu bán đục, lâu khô, vì thế nên tránh dùng để vẽ lót.
2) Đen Mars (Mars Black, PBk 11) là màu được tổng hợp vào t.k. XX từ oxide sắt. Mars Black là màu đục và khô rất nhanh nên nhiều người ưa dùng để vẽ lót. Tuy nhiên sắc ấm, ngả lục và vàng của Mars Black không thể thay thế được sắc lam, sâu và trong của Ivory Black trong việc vẽ lót da thịt.
Trái: Ivory Black của Vernét và Mars Black của Lefranc. Phải: Mars Black của Lefranc chứa hàm lượng oxide sắt khá cao nên dễ dàng bị nam châm hút.
- Nguyễn Đình Đăng -
>>> Mô tả về sơn dầu
>>> Kỹ thuật cơ bản vẽ tranh sơn dầu
>>> Sử dụng dầu thông và dầu lanh trong tranh sơn dầu