Họa phẩm “Điểm tâm trên vườn cỏ” (1863)
của Edouard Manet
Khởi từ khuynh hướng hiện thực hiện xã hội, chuyên vẽ những sinh hoạt nông thôn, Manet chịu chuyển sang sinh hoạt đô thị Paris. Ngay từ giai đoạn sơ khai, ông đã thiên về kỹ thuật dùng sơn ướt – trên ướt, nghĩa là từ bỏ lối phủ màu ướt trên lớp màu khô theo lối cổ điển.
Manet dùng khung vải lót màu kem trắng sáng, tạo không gian phẳng bằng các mảng màu phẳng. Tuy nhiên, ông vẫn duy trì cách tô màu bán cổ điển: mảng màu bao hàm nhân vật chính được tô màu pha nhiều độ dầu hơn màu ở mảng phụ xung quanh.
Tuy được coi như họa sĩ tiền phong của khuynh hướng Ấn tượng, nhưng họa phẩm Manet trông vẫn thân cận với bức tranh “hoàn chỉnh” kiểu cổ điển.
Tranh ông chỉ gần với phái Ấn tượng ở dạng cảnh “nhất thời” trong sinh hoạt thường tục thời hiện đại. Và trong giai đoạn hoàn chỉnh, Manet cố ý lưu lại nhiều nét phóng túng “có vẻ” tình cờ, ngẫu hứng. Theo lời nhận xét của Monet về bức “Olympia” phương pháp làm việc của Manet rất nghiêm túc, vẽ đi vẽ lại nhiều lần nhưng đến khi dứt điểm thì ông ta phóng những nét có vẻ xuất thần như tốc họa. Manet muốn nói lên thời tính trong vận hành của “hiện tượng biến dịch trong sự sống”.
Có thể gọi Manet là “thế hệ bản lề”, tạo điều kiện thiết yếu cho “cánh cửa nghệ thuật” mở ra, cuộc giao lưu giữa thế hệ cũ và mới, giữa Cổ điển, Hiện thực với thế hệ Ấn tượng là khởi điểm của hội họa hiện đại.
1. Manet dùng vải phủ nền màu kem tươi sáng, để chuẩn bị vẽ lên những mảng màu phẳng.
2. Nguồn sáng chiếu thẳng vào chính diện người mẫu sẽ loại trừ mảng màu trung gian trên thân người mẫu.
3. Không thấy vết tích nết phác họa bằng chì, than có lẽ Manet phác ngay những mảng nâu trong để định hình.
4. Mỗi nhân vật là một mảng màu nguyên trạng không pha hòa sáng tối của ánh sắc môi trường.
5. Mảng màu chính được đắp dày, pha thêm dầu cho nổi hơn các mảng phụ.
6. Màu nền xung quanh mảng chính chỉ cần màu mỏng, nhẹ, trong trẻo.
7. Những đường viền uốn lượn quanh hình thể được thêm vào giai đoạn chót.
8. Manet dùng dao vẽ cạo bớt những mảng màu dày trước khi vẽ lại hoặc cải biến bằng lớp màu kế tiếp.
Màu tự nhiên của mỗi vật đều được cường điệu, làm cho đậm hơn thực. Đồng thời các mảng sáng, tối cũng được họa sĩ cố ý làm tăng cường độ tương phản – nhằm mục đích loại trừ sắc độ trung tính.
Bố cục được phác nhanh và mạnh bằng các mảng màu trong và thẫm trên nền vải sáng còn để hở, nên phân định ngay được các mảng tương phản và tương đối quân bình trên toàn cảnh.
Nét độc đáo của Manet như ở nhân vật khỏa thân to lớn hơn tỷ lệ bình thường, bất chấp quy ước tạo vẻ “nhất trí” giữa các sự vật trong không gian ba chiều.
Tán cây và thân cây ở chậu cảnh chỉ được phác họa bằng những nét đại khái để định vị trong không gian toàn cảnh mà thôi.
Trong chi tiết bản phác cũng như bản chính, Manet dùng màu xanh lá pha dầu tô lên thảm cỏ bao quanh mảng nhân vật chính để cuốn hút thị giác người xem vào chủ điểm.
Vết bút táo bạo, tạo dáng chất liệu cộm lên trên nền vải – thêm vào đó là những nét đan zich zắc trên vải, thảm cỏ… tạo tương phản sống động quanh da thịt nhân vật khỏa thân.
Nó sẽ được vẽ kỹ hơn một chút trong bức họa hoàn chỉnh – nhưng so với nét vẽ nhân vật chính, nó vẫn giữ vẻ “đại khái” tình cờ.
Ngón tay của người ở tiền cảnh rất gần, hoặc đã đụng chạm vào cánh tay của người ở trung cảnh – đây.
>>> Tác phẩm "Mục tiêu bốn mặt" của Jasper Johns
>>> Tác phẩm "Rơm mùa thu" (1873) của Monet