Màu nước – Chất liệu cho những thử nghiệm không giới hạn
Không giống như sơn dầu, các loại màu pha trong nước cũng có thể đạt được những hiệu ứng đẹp mắt với ít công đoạn hơn. Từ thế kỷ XVIII trở về sau, loại màu nước này là một phương tiện rất được ưa chuộng đối với ngày càng nhiều các họa sĩ không chuyên – đây là một thực tế đã phần nào khiến cho màu nước không được công nhận là một phương tiện chủ đạo trong nghệ thuật, mặc dù những ghi chép lịch sử cho thấy điều ngược lại.
Màu nước được tạo nên bằng cách hòa bột màu với nước và một loại chất kết dính, chẳng hạn như keo Ả Rập (gum arabic) hoặc lòng đỏ trứng, cho phép màu sắc bám dính vào một bề mặt. Màu nước có thể được pha loãng với nước khi sử dụng để mang lại độ đục hoặc trong mà người họa sĩ mong muốn. Trong khi sơn dầu rất lâu khô vì phải chờ bay hơi, thì màu nước lại thường được sử dụng trên những bề mặt có khả năng thấm hút chẳng hạn như giấy khiến cho màu khô nhanh, do đó các lớp màu nước có thể được vẽ chồng lên nhau theo từng lớp một cách nhanh chóng mà không khiến cho màu sắc bị lẫn lộn.
John Constable đã trưng bày bức tranh màu nước về Stonehenge này ở Hàn lâm viện Hoàng gia vào năm 1836, và miêu tả rằng đó là “một tượng đài huyền bí… trên một vùng đất hoang vắng trơ trọi và vô tận”. Bức tranh này đã vẽ lại một bức ký họa màu nước ông vẽ từ 16 năm về trước.
Những tính chất này khiến cho màu pha trong nước đặc biệt hiệu quả đối với một số thể loại tranh nhất định. Độ đậm đặc khác nhau khi pha loãng mang lại rất nhiều sắc độ màu, từ những lớp màu trong mờ cho đến những khối màu đậm đặc, trong khi đó chính độ loãng của màu nước cũng góp phần làm tăng tốc độ vẽ.
Các họa sĩ ở Ai Cập, Trung Quốc và nhiều quốc gia cổ đại khác đã sử dụng màu nước như là một loại màu vẽ chính. Ở châu Âu, các loại màu vẽ pha trong nước đã được sử dụng để vẽ trên tường, trên các tấm ván và trong các bản thảo chép tay, nhưng cho đến tận cuối thế kỷ XV thì các họa sĩ mới bắt đầu khai thác triệt để những tính chất đặc biệt của màu nước. Các họa sĩ châu Âu khá chậm trễ trong việc sử dụng giấy rất lý tưởng cho những người cần phải di chuyển hoặc cần phải liên lạc với những nhà bảo trợ ở xa chẳng hạn như Albrecht Dürer. Thứ màu nước vẽ cây cối được quan sát cẩn thận của Dürer khiến cho lá cây và những cánh hoa có màu sắc sống động, song cũng mang một vẻ tinh tế gần như không trọng lượng, khá khác biệt so với các chi tiết tỉ mỉ của các bức tranh sơn dầu phong cách tự nhiên vào đầu thế kỷ XV.
Trước khi tạo ra các ông màu dầu vào năm 1841, màu nước là loại màu vẽ tiện lợi duy nhất dùng cho việc vẽ ở ngoài trời (còn gọi là plein-air). Vào thế kỷ XVII, Claude Lorrain đã tạo ra những bức vẽ nhanh bằng mực và màu nước tại vùng Campagna ở La Mã, những bức vẽ đó sau này đã trở thành nguồn tư liệu cho những bức tranh phong cảnh thần thoại mà ông vẽ trong họa xưởng của mình. Tuy nhiên, trong tay của những họa sĩ vẽ tranh phong cảnh theo trường phái Lãng mạn từ cuối thế kỷ XVIII trở đi, những bức ký họa màu nước đã trở thành một hình thức nghệ thuật được công nhận. Điển hình là các họa sĩ Anh vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, chẳng hạn như John Cozens và Francis Danby, đã sử dụng các lớp màu nước và những sắc độ tinh tế, mờ ảo để truyền tải bầu không khí của cảnh vật. Trong những bức tranh màu nước của J.M.W. Turner, những hiệu ứng về bầu không khí quan trọng hơn rất nhiều so với những đặc điểm thực tế của địa hình. Vào đầu thế kỷ XIX, chính những bức tranh màu nước như vậy đã được trưng bày như những tác phẩm hoàn chỉnh.
Trong số các họa sĩ của trào lưu nghệ thuật tiên phong đầu thế kỷ XX, Paul Klee là một họa sĩ đặc biệt với những thể nghiệm màu nước. Bức tranh Cá trong bến cảng (1916) vận dụng tính tương phản giữa những lớp màu sắc loang lổ theo trường phái Biểu hiện và những đường nét tưởng như kỳ quái.
Trong khi sơn dầu bám dính cố định vào bề mặt được vẽ lên thì màu nước lại loang ra và trộn lẫn vào nhau làm biến đổi màu sắc. Tính chất này cho phép các họa sĩ tìm thấy được sự cân bằng hoàn mỹ giữa việc kiểm soát màu sắc và tính ngẫu nhiên của màu sắc, ví dụ như trong những bức tranh màu nươc vẽ trên giấy ẩm. Các họa sĩ đã chuyển sang dùng màu nước như một phương tiện có thể đáp ứng tốt hơn trong việc thể hiện nhanh chóng những ý tưởng và trí tưởng tượng phong phú của họ thay vì sử dụng sơn dầu với tính chất mờ đục và mạnh mẽ. Những cảnh tượng huyễn hoặc trong tranh của William Blake từ thập niên 1790, cũng như những cảnh mộng ảo đầy ẩn ý của Paul Klee hay những bức tranh trừu tượng hiện đại trữ tình của Helen Frankenthaler đều có chung một đặc điểm là sử dụng màu nước trong đó kết hợp các sắc độ của màu sắc với một cảm giác về sự mong manh và hư ảo.
>>> Kỹ thuật đổ bóng bằng màu nước
>>> Sách vẽ màu nước cho người mới bắt đầu (Phần 1)
>>> Kỹ thuật vẽ hoa bằng màu nước (Phần 1)