Lối tạo hình mới trong hội họa của Piet Mondrian
PIET MONDRIAN
(1872-1944)
Piet Mondrian [Pieter Cornelis Mondriaan] sinh ngày 7 tháng 3 năm 1872 ở Amersfoort, Hà-lan. Cha ông hướng ông theo ngành dạy học, và ông có một bằng dạy vẽ. Năm hai mươi tuổi ông vào học hội họa ở Viện Mỹ Thuật Amsterdam và bắt đầu vẽ những phong cảnh hiện thực, trước tiên chịu ảnh hưởng những màu sắc rực rỡ của Van Gogh, rồi chuyển qua một hình thức dã thú và chọn cách điểm màu nguyên thủy kề cạnh nhau — thay thế những màu của tự nhiên bằng những màu nguyên thủy. Ngay từ những thời kỳ đầu thẩm thức của ông rõ ràng nghiêng về một lối cấu trúc đường nét và sự đối chọi chặt chẽ giữa đường đứng và đường ngang. Bị cuốn theo các khuynh hướng nghệ thuật hiện đại thời ấy, trong đó rất đáng kể trường phái lập thể [với ông là một mô thức lập thể phân tích], ông đến Paris năm 1912, ở đây ông khám phá Cézanne, Braque và Picasso. Ông bắt đầu đi tìm những lối phân rời hình thức, vẽ trừu tượng [loạt tranh CÂY] và sau đó vượt qua cả kinh nghiệm trừu tượng để đạt tới một nghệ thuật bất kể thực tại, sắp xếp liền nhau những đường thẳng và màu sắc theo một “lối biểu hiện tự do những tương quan” nhưng vẫn giữ “tính cách tương đối và giới hạn”: đường nét trong những “bố cục” ngày càng dơn giản và đầy tính cách và nhịp điệu của ông là những đường thẳng đứng hoặc ngang, và màu sắc giới hạn trong ba màu căn bản, đỏ, vàng, lam, hoặc những không-màu như trắng, đen, xám — các mảng màu như thế sẽ nằm gọn trong các hình vuông hoặc hình chữ nhật [loạt tranh MẶT TIỀN], sau này có khi là hình thoi. Năm 1914 Mondrian trở về Hà-lan thăm cha và do chiến tranh nên bị kẹt tại đây hai năm. Khi ông trở qua Paris khoảng 1919, một ngọn gió nghệ thuật khác đã khiến ông từ bỏ những chấn song để bước vào cái mà sau đó ông gọi là lối tạo hình mới.*
Khi Thế chiến II sắp bùng nổ, ông qua London, và sau đó là New York. Ở Mỹ, bắt đầu năm1940, ông thay thế những đường nét đen bằng những dải màu gồm nhiều hình chữ nhật hay hình vuông màu nhỏ và đã đem lại cho tranh ông một thứ trữ tình “vui tươi”, cho nên nhiều người vẫn cho rằng vào những năm cuối đời, ông hoàn toàn thoát khỏi những ám ảnh [bấy giờ có khuynh hướng] gia tăng các đường thẳng màu đen, và đã quyết định bỏ mọi thứ màu đen trên tranh mình. Khi ông qua đời ngày 1 tháng 2 năm 1944 ở New York, báo chí nước Mỹ đã đồng thanh vinh danh, và ngày nay không ai không nhớ đến ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài của tác phẩm ông, được triển khai không những ở trường phái Bauhaus mà cả đến những nhóm nghệ thuật “Tròn và Vuông”, rồi “Trừu tượng - Sáng tạo” sau đó.
Đời sống của con người có kiến thức ngày nay dần dần từ bỏ những sự vật thiên nhiên để càng ngày càng trở nên một đời sống trừu tượng.
Những sự vật thiên nhiên (bên ngoài) càng lúc càng trở thành máy móc, thì chúng ta nhận thấy sự lưu tâm chính yếu càng ngày càng hướng vào những sự vật bên trong. Đời sống của con người thật sự mới không thuần duy vật mà cũng không thuần tình cảm, trái lại nó biểu lộ ra như một đời sống tự trị hơn của tâm linh con người đang ý thức được sự hiện hữu của chính mình.
Con người mới — dù là hợp nhất của thể xác, linh hồn và trí óc — cho ta thấy một ý thức đã thay đổi: tất cả các cách biểu hiện đời sống hiện ra dưới một khía cạnh khác, tôi muốn nói là dưới một khía cạnh trừu tượng tích cực hơn.
Trong nghệ thuật cũng vậy. Nghệ thuật sẽ trở thành sản phẩm của một thứ đối tính khác trong con người: sản phẩm của một bên ngoài có kiến thức và của một bên trong ý thức hơn, và được đào sâu. Chỉ tiêu biểu thuần túy cho tâm linh con người, nghệ thuật sẽ phô diễn dưới một hình thức thẩm mỹ được lọc luyện, nghĩa là hình thức trừu tượng.
Người nghệ sĩ thật sự mới ý thức tính cách trừu tượng trong một lúc cảm xúc vẻ đẹp, anh ta ý thức nhận rằng cảm xúc cái đẹp là một cảm xúc toàn thể, bao quát. Sự nhận thức đó có một hệ luận là lối tạo hình trừu tượng, vì con người chỉ liên kết với những gì phổ quát.
Như vậy lối tạo hình mới sẽ không có hình thức của một sự tượng hình tự nhiên hay cụ thể, là sự tượng hình thật ra luôn luôn biểu lộ tới một mức độ nào đó cái phổ quát, hoặc, ít ra, cũng che giấu nó bên trong. Lối tạo hình mới này sẽ không thể trang bị bằng những gì biểu thị tính chất đặc biệt, nghĩa là hình thể và màu sắc thiên nhiên. Trái lại nó tìm ra được lối biểu hiện của nó trong sự trừu tượng hoá của mọi hình thể và màu sắc, nghĩa là bằng đường thẳng và bằng màu sắc sơ đẳng được xác định rõ ràng.
Những cách thức biểu hiện phổ thông đó được khám phá ra trong hội họa mới do đường đi tới của một lối trừu tượng tiến hóa và hợp lý của hình thể và màu sắc. Một khi tìm được giải đáp rồi, người ta thấy xuất hiện, như tự nơi mình, sự biểu tượng đích xác của những tương quan duy nhất và, cùng với những tương quan đó, là yếu tố chính, căn bản, của mọi cảm xúc tạo hình về cái đẹp.
Ngôi nhà nhỏ dưới nắng
(sơn dầu trên bố, 52,5 cm x 68 cm, 1909-1910)
Như vậy lối tạo hình mới là một sự tương quan thẩm mỹ được diễn tả đúng mức, người nghệ sĩ ngày hôm nay kiến tạo nó, trong hội hoạ, như một hệ quả của mọi lối tạo hình trong quá khứ — và chính điều đó xảy ra trong hội họa, vì hội họa là bộ môn nghệ thuật ít ràng buộc với những sự ngẫu nhiên nhất. Cả đời sống mới, khi tự đào sâu, có thể phản chiếu lại nguyên vẹn trong bức tranh. Trong hội hoạ — hội hoạ thuần túy, chứ không phải hội họa trang trí — chính lối tạo hình thiên nhiên cũng như những cách thức biểu hiện của nó đã “hướng nội” bằng cách mượn đường đi đến trừu tượng. Hội họa trang trí thì chỉ có thể đạt đến sự tổng quát hoá của hình thể và màu sắc thiên nhiên thôi.
Và chính vì vậy mà, do hội hoạ thuần túy, cảm năng trong lối tạo hình thẩm mỹ của những tương quan đã đạt đến chỗ sáng sủa.
Trong nghệ thuật vẽ tranh đó — cái nghệ thuật đã tiếp nhận trong nó nghệ thuật trang trí hiện hữu hay, đúng hơn, là đã trở thành chính nghệ thuật trang trí thật sự — lối biểu hiện tự do những tương quan dĩ nhiên vẫn sẽ có tính cách tương đối và giới hạn. Bản chất thầm kín của tất cả nghệ thuật dù có độc đáo và như nhau chăng nữa, cảm năng trong lối tạo hình thẩm mỹ của những tương quan dù có diễn tả càng lúc càng rõ ràng hơn trong tất cả các bộ môn nghệ thuật chăng nữa, thì tất cả những bộ môn của nghệ thuật cũng không thể diễn tả cái tương quan rõ ràng đó với cùng một sự hữu hiệu như nhau.
Bởi vì, nếu nội dung của tất cả bộ môn nghệ thuật đều cùng giống nhau, thì những khả năng diễn tả nơi mỗi nghệ thuật đều khác nhau. Những khả năng đó phải được tìm ra trong mỗi bộ môn của những nghệ thuật trên chính địa hạt thuộc về bộ môn đó và phải luôn dính liền với địa hạt đó.
Mỗi nghệ thuật đều có âm điệu riêng, những cách thức biểu hiện riêng của nó, và vì vậy mà người ta có thể giải thích được sự hiện hữu của những bộ môn nghệ thuật khác nhau. Tuy nhiên âm điệu của hội hoạ có thể định nghĩa như lối biểu hiện hợp luận lý và thuần lý nhất của các tương quan thuần túy. Vì đặc quyền riêng biệt của hội hoạ là có thể diễn tả các tương quan đó một cách tự do. Như thế có nghĩa là những cách thức biểu hiện đó (bởi sự đi tới cùng của luận lý bên trong của chúng) cho phép cực độ một và cực độ khác phát biểu bằng mối tương quan vị trí duy nhất, không thu nhận một hình thể nào hay một hình thể giả vờ nào khép kín, như chúng ta thấy trong kiến trúc.
Trong hội hoạ, đối tính của mối tương quan có thể được biểu hiện bằng những vị trí tách rời, là điều không thể có được trong kiến trúc hay trong điêu khắc. Chính do chỗ đó mà hội họa có thể là một nghệ thuật tạo hình thuần túy nhất.
Tự do sử dụng phương cách biểu hiện là đặc quyền riêng biệt của hội họa. Những nghệ thuật anh em, như điêu khắc và kiến trúc, không được tự do nhiều đến như vậy. Những bộ môn khác của nghệ thuật còn ít tự do hơn trong việc đem ảnh hưởng tiên quyết vào cách thức biểu hiện.
Hội họa, không vượt quá mức những phương cách biểu hiện của chính nó, vẫn còn có thể đạt đến một sự xác định rõ ràng và đạt đến cả sự hướng nội của những phương cách đó.
Tuy nhiên lối tạo hình mới vẫn thuần túy là hội hoạ: những phương cách biểu hiện vẫn luôn luôn là hình thể và màu sắc, dù là trong sự hướng nội toàn diện nhất của nó; đường thẳng và màu sắc vẽ trơn phẳng vẫn là những phương cách biểu hiện thuần túy hội hoạ.
Dù mọi lối chia khác biệt trong cách biểu hiện, mỗi nghệ thuật, dù là nghệ thuật gì chăng nữa, nhờ kiến thức mở rộng dần của tâm linh, đều càng ngày càng trở thành một sự diễn tả đích xác những tương quan quân bình. Thật vậy, tương quan quân bình là lối diễn tả thuần túy nhất của toàn thể, của hoà hợp và của đồng nhất, là đặc tính của tâm linh.
Vậy nếu chúng ta chú tâm vào cái tương quan quân bình đó, chúng ta có thể thấy được sự đồng nhất trong những sự vật thiên nhiên. Tuy nhiên sự đồng nhất đó chỉ hiện ra một cách lờ mờ. Nhưng nếu sự đồng nhất không bao giờ đi tới một sự biểu hiện đích xác thì sự diễn tả cũng vẫn có thể đưa về tính cách đó. Vậy nên sự diễn tả đích xác của tính cách đồng nhất có thể phát biểu được; nó phải được phát biểu, vì trong thực tại cụ thể người ta không trông thấy nó được.
Trong thiên nhiên, ta có thể nhận thấy rằng tất cả những tương quan đều bị chi phối bởi một tương quan nguyên thủy duy nhất, là cái tương quan của cực độ một đối diện với cực độ khác. Thế nhưng lối tạo hình trừu tượng của những tương quan lại biểu hiện cái tương quan nguyên thủy đó một cách rõ ràng bởi đối tính về vị trí tạo thành góc vuông. Cái tương quan vị trí đó là cái tương quan quân bình nhất trong mọi tương quan, vì nó diễn tả trong một hoà điệu hoàn toàn cái tương quan của cực độ một và cực độ khác và bởi vì nó mang trong nó tất cả những tương quan khác.
Bố cục với Đỏ, Vàng, Lam và Đen
(sơn dầu trên bố, 59,5 cm x 59,5 cm, 1921)
Nếu chúng ta quan niệm hai cực độ đó như một biểu lộ bên trong và bên ngoài, ta sẽ thấy rằng trong lối tạo hình mới mối liên lạc nối liền tâm linh và đời sống không hề bị gián đoạn; như vậy, chẳng những ta không xem nó như một phủ nhận đời sống thật sự sinh hoạt, chúng ta còn sẽ thấy nơi nó sự giải hoà của đối tính vật chất-tâm linh.
Nếu, nhờ sự thưởng ngoạn, chúng ta nhận biết được rằng sự hiện hữu của mọi sự vật đối với chúng ta được định nghĩa theo thẩm mỹ bằng những tương quan tương xứng, thì điều đó có thể có được vì ý niệm về cách biểu lộ sự đồng nhất đó đang sẵn phôi thai trong ý thức của chúng ta. Ý thức này, thật vậy, là một cách đặt riêng biệt ý thức chung, vốn chỉ là một.
Nếu ý thức con người lớn lên từ cái mơ hồ đến cái tích cực và cái xác định, thì ý niệm đồng nhất trong con người cũng sẽ lớn dần đến cái tích cực và cái xác định.
Nếu sự đồng nhất được chiêm ngưỡng một cách rõ ràng và xác định, thì sự chú ý sẽ chỉ được hướng về cái phổ quát và, bởi thế, cái đặc biệt trong nghệ thuật sẽ biến mất — như hội hoạ đã có cho thấy. Thật vậy, cái phổ quát chỉ có thể được diễn tả một cách thuần túy khi cái riêng biệt không còn chắn đường nữa. Chỉ khi đó ý thức phổ quát (nghĩa là trực giác), vốn là nguồn gốc của mọi nghệ thuật, mới có thể được trực tiếp trả về lại, để khai sinh ra một lối biểu hiện nghệ thuật được lọc luyện.
Tuy nhiên lối biểu hiện này không thể xuất hiện trước thời kỳ của nó. Vì chính ý thức thời gian xác định cách biểu hiện nghệ thuật, cái nghệ thuật đến lượt nó lại phản chiếu ý thức thời gian. Nhưng thật sự sinh hoạt, trong hiện tại, chỉ có hình thức nghệ thuật nào thực hiện được lối biểu hiện ý thức hiện tại — hay tương lai.
Những phương cách biểu hiện mới (mà lối tạo hình thuần túy dùng đến) là những chứng cứ của một lối nhìn mới. Nếu mục đích của tất cả mọi nghệ thuật là lối tạo hình những tương quan, thì, riêng ngày hôm nay thôi, có một lối nhìn ý thức hơn cũng đã dẫn chúng ta đến một cách biểu hiện rõ ràng hơn mục đích đó, và điều này chính là do sự đổi mới những phương cách tạo hình.
Những phương cách biểu hiện tạo hình phải hoàn toàn thoả hiệp với những gì chúng cần phải diễn tả. Nếu người ta đòi hỏi những phương cách đó phải là một lối biểu hiện trực tiếp của cái phổ quát thì chính chúng sẽ không thể là cái gì khác hơn là những cái phổ quát, nghĩa là những cái trừu tượng.
Bố cục dành cho người nghệ sĩ nhiều tự do hơn hết để chủ quan của anh ta có thể tự diễn tả tới một mức độ nào đó, trong một thời gian lâu bất cứ đến lúc nào còn thấy cần thiết.
Nhịp điệu của những tương quan về màu sắc và về mức độ làm hiện ra cái tuyệt đối trong cái tương đối của thời gian và không gian.
Như vậy lối tạo hình mới có tính cách đối tính do bố cục. Bởi lối tạo hình chính xác của những tương quan trong vũ trụ nó là một cách biểu hiện trực tiếp cái phổ quát. Bởi nhịp điệu, bởi thực tại vật chất của lối tạo hình của nó, nó là một cách biểu hiện chủ quan tính của người nghệ sĩ được coi như một cá thể.
Như vậy nó mở ra trước mắt ta cái đẹp phổ quát, nhưng không vì thế mà chối bỏ yếu tố nhân bản.
Broadway Boogie-Woogie
(sơn dầu trên bố, 127 cm X 127 cm, 1942/43)