Tranh tinh tướng họa Hoàng Lập Ngôn
trên báo Ánh sáng xuân Tân Mão 1951
Họa sĩ Hoàng Lập Ngôn tự họa
Vài lời giới thiệu của Tòa soạn báo Ánh Sáng:
Họa sĩ Hoàng Lập Ngôn mê du lịch, du lịch để mà ghi chép những cái lạ của chân trời. Tốt nghiệp năm 1938 trường Cao đẳng Mỹ thuật, họa sĩ đi Lào và năm sau đóng xe ngựa đi lang thang với vợ con, đi vẽ ở Bắc và xe lăn dần vào Nam. Họa sĩ lấy tên con gái đặt tên xe ngựa là “Nhà lăn Mê Ly”. Chiến tranh, nhà lăn phải ngừng bánh ở bờ sông Hương. Gần đây, họa sĩ đã nằm “boong” quanh Hồng Hải, lê gót trên hè Ba Lê và hiện nay, ngồi ở Hà Nội để mơ một chuyến đi dài hơn.
Lời của họa sĩ Hoàng Lập Ngôn:
Thưa các bạn,
Đây chỉ là một số nhỏ, hai mươi đầu đầu mà tôi nhắm mắt rút trong tập “Đầu văn nghệ” vẽ từ thu 1948. Trên vài trang báo này, tôi rất tiếc không trình bày được hầu hết những vẻ mặt trìu mến của các bạn văn nghệ thân yêu.
Cùng với các bạn đã họp mặt tại đây! Tôi đã yêu và tìm hiểu các bạn ! Nếu “hình dung cổ quái” thì cũng vì “dị nhân dị tướng”. Nhìn các bạn bằng mắt, bằng tim, bằng óc, tôi cố tả tướng bạn, tình bạn. Và cho đến ngày nay, tôi tưởng chỉ nhìn được bạn đến thế này.
Thưa các bạn độc giả muốn hiểu lối “tướng tính họa” này xin các bạn cũng nhìn như tôi. Nghĩa là bằng cách cả mắt, tai, tim, óc. Chúng ta cùng cố gắng mà hiểu.
Về từng nghệ sĩ:
Họa sĩ Trần Văn Cẩn: Tướng hổ, hổ thùy mỵ như cô gái lớn về làm dâu. Mắt sáng, miệng chúm chím, ăn như mèo. Thích hút pip, nước trà, ăn bánh cuốn và đậu rán nóng, vẽ hoa và thiếu nữ, gần đây ưa đồng ruộng và dân cày.
Thi sĩ Đinh Hùng: Vẻ giai nhân: da mịn, tóc bồng, miệng chúm như nhớ nhung gì. Thơ lạ, đóng Vân muội, vẽ tượng trưng.
Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát: Tóc rũ như liễu. Gò má và bọng mắt gặp nhau để thành một giọt lệ. Mũi, nhân trung, vết nhăn cùng chạy dài trong một khuôn mặt dài. Ôm ấp một đau khổ, một lý tưởng !. Ở người nghệ sĩ, ấp ủ gì hơn nữa !
Thi sĩ và kịch sĩ Thế Lữ: Tướng hầu có trán cao. Thơ ở mắt, kịch ở miệng. Mắt và miệng găng nhau. Tóc bạc tình xanh.
Họa sĩ Tạ Tỵ: Tóc mây, trán sườn đồi, mắt giếng khơi, mũi núi, nhưng cả người là ở miệng: tròn, thẳng, tươi hỉ, chun giãn. Hiên ngang không với giai nhân - kiện (?). Tướng họa phái lập thể. Dám hy sinh cho nghệ thuật.
Họa sĩ Mai Trung Thứ: Phong tình. Mê sông Hương như mê sông Seine. Chơi đàn nguyệt giữa Ba lê. Chưa có vợ, nhiều tương lai.
Tương Phố phu nhân: Thân hình người không là “giọt lệ thu” trừ ở mắt và miệng. Tượng trưng một thời xưa.
Thi sĩ Phạm Huy Thông: Thông minh ở cả trán và mắt. Miệng và lưỡi tưởng như vừa thổi địch sông Ô. Vợ ngoại quốc là phải và phải biết hát “thiên thai” và nói tiếng Việt cổ điển.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương: Chàng áo xanh thở Kiều Thu và Phi Yến ở rừng Thu. Mặt huyền ảo. Đi như ma. Thơ như ngọc rung trong khay đồng.
Điêu khắc gia Vũ Cao Đàm: Trán nghị lực, mắt trầm mà lộ. Vẻ mặt đanh thép. Nghệ sĩ tiền phong.
Thi sĩ Trần Huyền Trân: tên và người xung khắc. Tên công cháu và người Mông cổ. Tóc luống cầy mạ cấy. Mắt tướng. Có lỗ mũi, một răng nhiều duyên. Toàn thể đồng hun.
Văn sĩ Ngọc Giao: Tóc sóng, quai hàm nở, thích boxe và đá banh. Nguồn văn ở mặt và môi: mắt thẳm thẳm, môi chun, thích chuyển động lên xuống. Ưa rượu, nhắm và ngắm bóng hồng.
Nhà báo Tam Lang: Có một toà kiến trúc ở trong người bạn. Đầu như củ khoai, lành như khoai lang nướng nhưng khi khoai rim thì...kia ! Sao bạn lại nhăn mặt ! bạn sợ rồi. Tài châm biếm ẩn như có ai trông thấy rim đâu.
Văn sĩ Đồ Phồn: Tóc gai , ba ba núi. Mũi và miệng có nọc: viết châm biếm được. Mắt hóm ẩn dưới mày rậm.
Nữ kịch sĩ Song Kim: Nét mặt vững chắc, má lúm đồng tiền, có duyên thầm, lấy Thế Lữ phải.
Thi sĩ Nguyễn Đức Quỳnh: Mặt sắt. Sọ dừa. Có búa và đe. Mắt tia lửa. Họng nó thẳng, có khi ngụy biện, hình ống bể.
Điêu khắc gia Nguyễn Thị Kim: Có nét mặt như pho tượng chàm cổ. Vẻ ngây của Kim đã lộ ra ở trán, mắt, môi, răng. Là nghệ sĩ, Kim còn lấy cả nghệ sĩ: Phạm Văn Đôn họa gia.
Kịch sĩ Trương Đình Thi: Tướng ngũ lộ: sọ, mắt, răng, hầu, gân cổ, nhất là khi hò. Tính trẻ nhưng thích đóng vai cụ Đồ.
- Phạm Công Luận -