Nghệ thuật điêu khắc đồng

Đồng gắn bó với nhân dân ta trong suốt trường kỳ lịch sử. Nó là chất kim loại quý được lấy làm bản vị của các giá trị trao đổi từ xa xưa cho đến tận gần đây. Được xem là kim loại thiêng để đúc tượng thờ và nhiều đồ tế khí. Tuy nhiên, cũng lại gắn với sinh hoạt đời thường của mọi người. Dù sử dụng dưới góc độ nào, thì đồng thường được pha chế thành thỏi rồi gò dát, có khi sau đó còn gia công khắc rạch thêm. Với quy trình đúc, nghệ thuật điêu khắc đồng khá phức tạp song có thể vượt lên những phá hoại của thời gian, là chất liệu đích thực của điêu khắc. Chính vì vậy, chúng ta cùng đi khám phá những thành tựu đúng đồng trong lịch sử như thế nào?

Đồ đồng có bề dày lịch sử chỉ đứng sau các đồ đá, tre, gỗ và gốm. Ở nước ta, đồng tham gia vào thế giới gỗ - gốm – đá từ 4000 năm trước. Chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên phân bố trong lưu vực sông Hồng đã có những hoạt động chế tác đồng, còn để lại bằng chứng ở các di chỉ khảo cổ học. Chẳng hạn, di chỉ Gò Bông (Phú Thọ) đã tìm thấy những cục đồng, xỉ đồng chứng tỏ người Phùng Nguyên đã luyện kim tại chỗ và phân tích thành phần các cục đồng gồm đồng và thiếc, chứng tỏ họ đã biết tạo ra hợp kim đồng thau.

Tuy nhiên, nếu ở văn hóa Phùng Nguyên đồ đồng chưa lấn được thế lực của công cụ đá nhưng nó đã bắt đầu cội nguồn của văn minh sông Hồng thì sang giai đoạn văn hóa Đồng Đậu kế tiếp.

Ở các di vật đã biểu hiện một sự kế thừa, nâng cao, đổi mới thì đồ đồng đã khá phổ biến, chiếm khoảng 1/5 số công cụ và vũ khí với nhiều loại hình phong phú như rìu, dũa, lưỡi câu, mũi lao, mũi tên…

Quan trọng nữa là còn tìm được những khuôn đúc đồng bằng đá, bằng đất, có khuon đúc một hiện vật, có cả khuôn cùng một lúc đúc nhiều hiện vật, tất cả đã khẳng định sự phát triển của kỹ thuật luyện kim đồng thau là đặc trưng quan trọng của văn hóa Đồng Đậu.

Chuyển sang giai đoạn Gò Mun cùng với nhiều hướng giảm sút của đồ đá về cả số lượng, loại hình thì đồ đồng thau phát triển mạnh, chiếm ưu thế với tỷ lệ hơn 50% tổng sô công cụ và vũ khí mà bên cạnh những loại hình đã có còn sáng tạo thêm được rìu lưỡi xéo, dùng đồng làm cả đồ trang sức như vòng tay.

Việc tìm ra khẳng định các giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun là cống hiến quan trọng của giới khảo cổ học Việt Nam. Nó đã nối liền trực tiếp và liên tục từ thời đại đồ đá mới đến văn hóa Đông Sơn rực rỡ khiến các học giả phương Tây phải choáng ngợp mà hoài nghi nguồn gốc.

Ở đây, dưới góc độ đồ đồng, các giai đoạn trước đã chuẩn bị đầy đủ đến văn hóa Đông Sơn thì đồ đồng đạt đến mức hoàn hảo cả về kỹ thuật và nghệ thuật. Cho đến văn hóa Đông Sơn, đồ đá phần lớn chỉ còn để trang sức, đồ gốm nặng ý nghĩa thực dụng, tất cả bị đẩy lùi về phía sau đồ đồng. Ngày nay, chúng ta có bộ sưu tập đồ đồng Đông Sơn, gồm 60 loại hình phong phú, độc đáo với số lượng lớn, kích thước rất khác nhau.

Có công cụ sản xuất trong nông nghiệp và trong thủ công nghiệp, có vũ khí đánh gần, đánh xa và phương tiện phòng vệ, có nhiều dụng cụ gia đình, đồ trang sức, nhạc khí và tượng nghệ thuật. Các loại hiện vật trên, chẳng những có nhiều loại kiểu dáng khác nhau mà còn có trang trí đẹp, đòi hỏi người thợ thủ công cũng là nghệ nhân dân gian. Do đó, ngoài giá trị thực dụng còn có giá trị nghệ thuật cao.

Nổi trội lên ở văn hóa Đông Sơn trở thành biểu trưng của văn minh sông Hồng, là trống đồng Đông Sơn được phân bố trên một địa bàn rộng lớn của vùng Đông Nam Á. Trong đó, riêng Việt Nam cho đến năm 1980 có 169 chiếc (gồm 91 chiếc loại lớn và trung bình, và 78 chiếc trống minh khí). Các nhà sử học Việt Nam đã khẳng định “miền Bắc Việt Nam được coi là một trung tâm xuất hiện và truyền bá sớm của trống đồng Đông Sơn”.

* Trống đồng Đông Sơn của người Việt Cổ:

Trống đồng Đông Sơn cả về kỹ thuật đúc, nghệ thuật tạo dáng, trang trí là sáng tạo tuyệt vời của người Việt cổ. Trong đó, những hình trang trí phủ đầy bề ngoài trống đã phản ánh trung thực con người, đương thời trong các hoạt động sản xuất, sẵn sáng chiến đấu, vui chơi, tín ngưỡng và cả nhiều sinh vật gắn bó với con người.

Do đó, đồng trước giai đoạn Đông Sơn chủ yếu là công cụ và vũ khí yêu cầu có độ cứng, độ sắc cao nên hợp kim đồng thay có tỷ lệ đồng là 80% đến 90%, thiếc từ 10% đến 20%, còn hàm lượng chì rất thấp (chỉ 0,01% đến 0, 4%) ngang với tỷ lệ vài tạp chất.

Sang giai đoạn Đông Sơn, do đồng thau được dùng phổ biến để đúc nhiều hiện vật mang tính nghệ thuật, người Đông Sơn đã biết giảm tỷ lệ đồng và thiếc, để tăng hợp kim đồng – thiếc – chì có độ dẻo, dễ điền đầy các chi tiết của khuôn đúc. Các di chỉ văn hóa Đông Sơn còn cung cấp cho ta một số nồi nấu đồng, khuôn đúc rìu, dao găm, giáo, chuông… có cấu tạo khuôn, kỹ thuật làm khuôn chứng tỏ người thợ đúc đồng đương thời. Có đôi mắt bằng ngọc, đôi tay bằng vàng mà còn có hiểu biết sâu sắc về kỹ thuật luyện kim, tạo được những lò nấu đồng chịu đựng được nhiệt độ rất cao 1400 độ C. Từ thế kỷ II trước Công nguyên, đất nước ta bị Bắc thuộc cũng là lúc văn hóa Đông Sơn tiếp xúc với văn hóa Hán nhưng vẫn còn giữ được trong vài thế kỷ.

Cụ thể, ở nghề đúc đồng, trống đồng vẫn được đúc. Song, đã cải biên hay trá hình chậu úp, đồng thường được dùng để đúc những dụng cụ gia đình, những đồ tế tự và những mặt hàng mỹ nghệ.

Câu chuyện Mã Viện, sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, đã lùng tìm thấy rất nhiều trống đồng và phá ra lấy đồng đúc ngựa tốt dâng vua Hán chứng tỏ nghề đúc đồng thời đó vẫn ở một trình độ cao. Để kìm hãm, thậm chí nhằm phá hoại sâu xa thủ công nghiệp nước ta, thái thú Giao Chỉ là Tôn Tú, đã lùng bắt hàng nghìn thợ giỏi ta, đưa về Giang Đông dâng vua Ngô, để xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp, chắc hẳn trong đó, có những người thợ đúc đồng tài ba của nước ta. Theo Chu Khứ Phi, các thời Đường, thời Tống và thời Nam Tống, bọn đô hộ phương Bắc trong khi vơ vét tài nguyên nước ta, đã kéo bễ đỏ cả núi. Chắc chắn trong đó, có việc khai mỏ và đúc đồng, cùng phản ánh chính sách của bọn đô hộ, vừa kìm hãm vừa nuôi dưỡng ở mức nhất định để khai thác đối với nghề đúc đồng của nước ta mà bằng chứng cụ thể là quả chuông Thanh Mai mới được phát hiện năm 1986.

dong 1

Quả chuông Thanh Mai

Quả chuông này được tìm thấy ở dưới độ sâu 3m5 trong bãi sai bồi ven sông Đáy, thuộc xã Thanh Mai (huyện Thanh Trì – Hà Tây) có hình dáng giống như các quả chuông cổ Việt Nam còn thấy (đúc từ thời Trần về sau) nhưng miệng thẳng chứ không loe ngang. Quai chuông đã làm thành đôi rồng, đấu lưng vào nhau uốn cong lên, thân chuông có những nhóm chỉ nối ngang và dọc, chia mặt chuông làm 4 ô trên và 4 ô dưới để khắc bài văn có hai núm gỗ hình tròn với 10 cánh hoa bao quanh.

Bài văn chuông cho biết chuông được đúc năm Mậu Dần, hiệu Trinh Nguyên thứ 14 tức năm 798, nặng 90 cân Nam (nay cân được 46kg), thân chuông cao 52 cm, quai chuông cao 8 cm). Chuông do Hội Tùy Hỉ của những người Hoa và những người Việt cùng đúc. Đây là một thành tựu xuất sắc của kỹ thuật đúc đồng ở thế kỷ VIII. Cách tạo dáng, cấu trúc và độ dày của hợp kim đồng thau, làm cho chuông có âm hưởng ngân vang, phù hợp với âm thanh của các lễ cầu nguyện như chính bài minh ghi rõ.

Trên cơ sở nguồn gốc sâu xa, từ văn hóa Phùng Nguyên và đỉnh cao ở văn hóa Đông Sơn, nghề thủ công được tồn tại khéo léo trong nghìn năm Bắc thuộc, không những về kỹ thuật mà còn trở thành một chỗ dựa tinh thần để bảo tồn văn hóa dân tộc. Trống đồng được xem như vị thần bản mệnh của dân tộc, được dân gian lập đền thờ. Trong đó, có đền Đồng Cổ (đền Trống Đồng) ở Đan Nê (Thanh Hóa). Cho đến khi đất nước độc lập, nhà Lý đã rước thần trống đồng từ Đan Nê về Thăng Long, lập đền Đồng Cổ ở Bưởi để hàng năm triều đình đến tổ chức ăn thề.

Nâng cao địa vị thần Trống Đồng lên tột đỉnh, nhà Lý cũng đồng thời phục Hưng lại nghệ thuật đúc đồng. Đưa kỹ thuật đúc đồng lên một đỉnh cao mới, xây dựng những truyền thuyết và lịch sử hóa truyền thuyết về việc tổ đúc đồng và những kỳ quan đồ uống. Để gây ấn tượng và niềm tin sâu không chỉ ở đương thời mà truyền mãi về sau. Về ý định này, thực sự nhà Lý đã thành công và nhờ đó mà đồ đồng đã có một cuộc sống thần kỳ ở cả chính sử và dã sử.

Sử sách còn ghi nhận nhiều lần đúc đồng tạo ra những khí vật lớn và thiêng. Năm 1031, đúc chuông chùa Long Trì nặng 10,000 cân đồng, năm 1035 đúc chuông chùa Trung Quang nặng 6,000 cân đồng, năm 1041 phát 7,500 cân đồng để đúc tượng Phật, hai vị Bồ Tát và chuông lớn ở Viện Từ Thị Thiên Phúc, năm 1056 phát 12,000 đồng đúc chuông chùa Sùng Khánh Bảo Thiên…

Trong khí vật là chuông thì nổ lên yêu cầu về tiếng phải vang ngân, người thợ đúc đồng đã khám phá ra một công thức hợp kim là pha thêm kim loại quý vào để đúc phần vú chuông. Vì thế, năm đầu của vương triều mình, nhà Lý đã phát 1,680 lạng bạc để pha đúc chuông chùa Đại Giáo, năm 1014 phát 310 lạng vàng để pha đúc chuông chùa Hưng Thiên và phát 800 lạng bạc để pha đúc chuông chùa Thắng Nghiêm…

Việc khai thác mỏ đồng, cũng được sử sách xác nhận. Chẳng hạn, từ năm 1198, tổ chức khai thác mỏ đồng lục ở Lạng Châu. Ký ức nhiều người con ghi đậm truyền thuyết đã lịch sử hóa về ông Tổ đúc đồng, gắn liền với kỳ quan Tứ Đại Khí.

An Nam tứ đại khí là gì?

An Nam Tứ Đại Khí là một trong bốn bảo vật quốc bảo, kỳ quan của văn hóa thời Lý và thời Trần với bốn công trình nghệ thuật bằng đồng tinh xảo và điêu luyện.

Cả bốn khí vật này đều đã mất từ lâu. Trong đó, hai khí vật ở Thăng Long (chuông Quy Điền và tháp Bảo Thiên) được gán cho quân Minh phá năm 1426 để lấy đồng đúc vũ khí chống lại nghĩa quân Lam Sơn. Nhưng truyền thuyết kết hợp với sử sách và văn bia còn xác nhận.

dong 2

Chuông Quy Điền

- Chuông Quy Điền. Chùa Một Cột xây năm 1049, đến năm 1101 nhân sửa chùa, có đúc một quả chuông lớn. Chuông đúc xong nặng không thể treo lên được, bèn để ở ruộng nước có nhiều rùa, nhân đó thành tên chuông Quy Điền.

dong 3

Tháp Bảo Thiên

- Tháp Bảo Thiên. Chùa Bảo Thiên xây bên cạnh hồ Lục Thủy (hồ Hoàn Kiếm ngày nay) vào năm 1056, năm sau tại sân chùa xây cây tháp Đại Thắng Tư Thiên cao vài mươi trượng. Gồm 12 tầng, tầng dưới bằng đá, các tầng trên bằng đồng, trên đỉnh tháp có tượng tiên nữ bưng mâm ngọc, hứng móc ngọt. Cho đến đời Tây Sơn, còn thấy nền tháp với một số lượng đá đẹp.

dong 4

Phật chùa Quỳnh Lâm

Phật chùa Quỳnh Lâm. Chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều, có tượng Phật Di Lặc cao 6 trượng, đặt trong tòa điện cao 7 trượng, đứng xa mười dặm còn trong thấy rõ.

dong 8

Vạc Phổ Minh

Vạc Phổ Minh. Chùa Phổ Minh ở Nam Định có chiếc vạc mà hai người chạy đuổi nhau trên miệng được. Có tài liệu nói, vạc này sâu 4 thước, rộng hơn 10 thước và nặng 6,150 cân.

Thời Trần sử sách ít nói đến đồ đồng nhưng việc sử dụng rộng rãi trống đồng trong các nghi lễ long trọng và tác dụng lớn lao của tiếng trống đồng đã được xác nhận chắc chắn.

Thời Lê sơ hiện vật đồng còn lại ít, cơ bản là những đồng tiền đồng vốn đã có từ thời Đinh, mà sau đấy tất cả các nhà nước quân chủ độc lập của nước ta đều cho đúc và lưu hành rộng rãi.

Thời Mạc ngoài tiền còn có hai quả chuông đồng lớn (cao 1,55 mét và 1,75 mét) ở chùa Viên Minh (tức chùa Đà Quận) thuộc tỉnh Cao Bằng, đúc năm Tân Hợi, niên hiệu Kiền Thống 19, tức năm 1611 dáng cơ bản gần chuông thời Trần song kỹ thuật đúc do có thêm nhiều sắt trong hợp kim nên có màu gần với gang và mặt bị sần oxide hóa.

Sang thời Lê Trung Hưng dù năm 1776 khi chiếm được Đàng Trong, nhà nước Lê – Trịnh đã cho phá những súng đồng nòng rộng không dùng được, những đồ đồng nặng không mang đi được, những đỉnh to vạc lớn nặng 700 cân đến 800 cân trở xuống… lấy được của chúa Nguyễn để đúc tiền. Nổi trội trong nghệ thuật đúc đồng thời Lê là tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh (Hà Nội) bằng đồng hun đúc năm Vĩnh Trị 2 (1677) cao khoảng 9 thước (3m72) nặng 6,600 cân (4,000 kg) thể hiện một vị thần là đạo sỹ ngồi xõa tóc, chân để trần, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm, thân gươm có rắn quấn và chống lên lưng rùa. Tượng Trấn Vũ chẳng những là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo mà về kỹ thuật đúc đồng đã đánh dấu một đỉnh cao.

dong 9

Tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh (Hà Nội)

dong 6

dong 7

* Cửu vị thần công là gì?

Cửu vị thần công là chín khẩu đại bác lớn, được đặt tên là Xuân Hạ Thu Đông và Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ đều được triều đình Huế phong là Thần Uy Vô Địch Thượng Tướng Công. Từng khẩu đều dài tới 5m10 và nặng trung bình tới 17,500 cân, thân súng được chạm tỉ mỉ hoa lá, còn khắc rõ danh hiệu, vị thứ, trọng lượng, cách sử dụng và niên đại Bính Tý năm Gia Long 15, tức 1816. Bộ cửu vị thần công này là những khí vật bằng đồng khổng lồ hiện còn. Nhưng đúc hoàn hảo cả về kỹ thuật và nghệ thuật được mọi người quan tâm đến nhiều hơn cả là bộ cửu đỉnh.

* Cửu đỉnh thần công là gì?

dong 5

Cửu đỉnh thần công là chính chiếc đỉnh, đặt ở sân Thế Miếu, mang các tên Cao – Nhân  - Chương – Anh – Nghị - Thuần – Tuyên – Du – Huyền muốn biểu hiện một vòng lịch đại đầy đủ. Trong đó, Cao là thế hệ khởi đầu và Huyền là thế hệ truyền nối xa nhất.

Tất cả đều ghi rõ đúc năm Ất Mùi, niên hiệu Minh Mạng 16, tức 1835. Dáng chung của các đỉnh như một lư hương tròn có ba chân cao, bề thế, được xem như tác phẩm điêu khắc hoành tráng.

Xung quanh bầu đỉnh còn nổi một mảng tên đỉnh và 17 mảng các hình chạm nổi về cảnh trí đất nước, tinh tú, hiện tượng thiên nhiên và các sinh vật xem như những phù điêu treo xung quanh đỉnh.

Từng chiếc, trọng lượng, kích thước có xê dịch, nặng từ 3,201 cân đến 4,307 cân và cao từ 2m31 đến 2m5 (cả quai), chu vi bầu từ 5m5 đến 5m7. Đã có nhiều người bàn đến kỹ thuật đúc đỉnh với những hình chạm nổi. Xu hướng chung cho là đúc liền khuôn và như thế việc làm khuôn đúc khá phức tạp, được giải quyết mỹ mãn.

Sang thế kỷ chúng ta để khai thác nghề đúc đồng cổ truyền, ngay từ năm 1907, chính quyền thực dân Pháp đã mở trường Mỹ nghệ Đồ gốm và Đúc đồng ở Biên Hòa. Nhưng thành tựu nổi trội về nghề đúc đồng vẫn nằm ở trong dân gian và ở ngoài Bắc.

Tuy mục đích chính của nghề đúc đồng bây giờ không phải là cho Nhà nước, hay cho các điện thờ tôn giáo, mà là làm những đồ gia dùng của nhân dân với kích thước nhỏ. Song, khi cần đúc những tác phẩm nghệ thuật lớn, các nghệ nhân đúc đồng vẫn có thể thực hiện thành công tốt đẹp nhất.

Điển hình là việc nhân dân phường đúc đồng Ngũ Xã (Hà Nôi) đã đúc cho chùa Làng Minh pho tượng Phật A Di Đà vào năm 1952, cao 3m95, chu vi 11m6, hai đầu gối cách nhau 3m60. Riêng tượng nặng 12,300kg (tương đương 19,680 cân).

Ngoài ra, còn đài sen để đặt tượng có 96 cánh nặng 1600kg đồng nữa (tương đương 2560 cân). Như vậy, cả tượng và đài sen đều bằng đồng, nặng 22,240 cân đồng, vượt xa mọi khí vật cổ truyền hiện còn.

Thành tựu của nghề đúc đồng Việt Nam, suốt chiều dài lịch sử 4,000 năm dựng nước, còn để lại đến nay chỉ một phần. Song, thật đáng ngạc nhiên. Trên cơ sở ấy, chúng ta hoàn toàn tin tưởng ở triển vọng nghề đúc đồng ngày nay.

- Theo Chu Quang Trứ (myhocdaicuong.com) -

>>> Tượng điêu khắc các họa sỹ nổi tiếng Việt Nam tại Trung tâm Mỹ thuật Đương đại

>>> Điêu khắc - Mô hình hóa

>>> Chép đầu tượng trong điêu khắc

0976984729