Các chất liệu và họa tiết
A. CHẤT LIỆU:
Từ xưa đến nay, trong xã hội loài người, sự khai sáng, khám phá ra chất liệu luôn luôn gắn liền với thiên nhiên, với sự phát triển của các nền văn minh khoa học kỹ thuật của nhân loại.
Từ thuở hồng hoang cho đến hiện đại, chúng ta có tên những nền văn minh, thời kỳ gắn liền với chất liệu như: thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng, thời kỳ đồ sắt và ngày nay là thời kỳ đồ nhựa.
Ngày nay, trong nền văn minh hiện đại, chúng ta có rất nhiều chất liệu mới được phát minh, sáng chế như Polymer, chất liệu siêu dẫn, silicon, melamine và ở Việt Nam chúng ta có các ngành học mới về chất liệu, đó là “Khoa những chất liệu mới”.
Điều này cho thấy sự phát minh ra nhiều chất liệu là nhu cầu của các cuộc cách mạng khoa học.
Trong lĩnh vực nghệ thuật thị giác, chất liệu là những dạng vật chất nhìn thấy được, được các họa sỹ, nhà điêu khắc, nhà thiết kế sử dụng như là phương tiện để làm hiển thị các ý tưởng trừu tượng.
Mỗi loại chất liệu đều có những khả năng, đặc điểm, tính năng kỹ thuật riêng, đòi hỏi phải biết phương pháp sử dụng bảo quản riêng cho phù hợp với từng thể loại.
Các lĩnh vực chất liệu gắn liền với kỹ thuật và phương pháp thể hiện cụ thể như sau: sơn dầu, sơn mài, lụa, bột màu, giấy dán, màu nước, điêu khắc, hội họa, đồ họa, trang trí, tổng hợp.
Ngoài ra, chất liệu còn phối hợp với các khuynh hướng sáng tác như: nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật chuyển động, nghệ thuật thân thể…
Một tác phẩm mỹ thuật thường bao gồm: nội dung và hình thức. Trong phạm trù hình thức luôn bao hàm: kích thước, chất liệu thể hiện, thể loại, kỹ thuật (sơn dầu, sơn mài, màu nước), trường phái, khuynh hướng, phong cách diễn tả, cảm xúc.
Gần đây, trong tác phẩm mỹ thuật trên các tác phẩm, người ta không chỉ thể hiện bằng thao tác vẽ mà còn là dùng máy ảnh kỹ thuật số để chụp hình sau đó, xử lý hình đã chụp trên computer để trở thành tranh hoặc vẽ bằng computer arts, digital arts. Như vậy, hiện nay, quan niệm về phương tiện sáng tác đã mở sang hướng thoáng hơn.
Hiện nay, sự sử dụng chất liệu còn gắn với ý tưởng tạo hình, kỹ thuật thể hiện mục đích gợi cảm, độ bền của tác phẩm và khoa học về môi trường.
1. Chất liệu là gì?
Chất liệu là dạng vật chất hữu hình được lấy ra từ thiên nhiên hay nhân tạo. Nó có thể thuộc loại hữu cơ và ở nhiều thể trạng: rắn, đặc, trong đục, nặng nhẹ, thô, sần, mịn, bóng, cứng mềm, sệt nhão, lỏng hay dạng bột thậm chí có khi nó là ở dạng khí mờ có nhuộm màu.
Khi ứng dụng nó (chất liệu) để diễn tả trong nghệ thuật thị giác thì người ta còn gọi nó là “biểu chất” (chất dùng để thể hiện). Thuật ngữ này có nghĩa là chất liệu trên bề mặt của tác phẩm. Ngoài ra chất liệu còn có nghĩa là lớp vật chất ẩn dưới bề mặt của tác phẩm.
Trong thực tế sáng tạo thì thuật ngữ chất liệu vượt xa hơn dạng vật chất hữu hình, loại vật chất thấy được bằng mắt.
Lúc này, chất liệu mang ý nghĩa với những khái niệm hoàn toàn vô hình như: cảm xúc, cảm hứng, tình cảm.
Như vậy, các dạng xúc cảm, sự rung động cũng được gọi là chất liệu của sáng tạo.
Tuy nhiên ở đây chúng ta khoanh vùng lý luận về thuật ngữ chất liệu này trong phạm vi vật chất hữu hình dùng để biểu đạt nghệ thuật thị giác.
Chính từ xác định này chúng có những khái niệm cơ bản nhất về thuật ngữ này như sau:
- Các chất liệu lấy ra từ thiên nhiên: đá, sỏi, cát, gỗ, nước, các dạng khoáng sản, than, kim loại ở dạng thô.
- Các chất liệu do nhân tạo: kim loại các loại đã qua chế biến, (sắt, thép, vàng, bạc, titan, inox, nhôm, kẽm, đồng, thau) pha lê, thủy tinh, sành, đất nung, gốm, sứ, thạch cao, cải, bố, simili, nhựa, silicon, acrylic, sơn dầu, màu bột, màu nước, màu sáp, bút chì…
Mỗi loại chất liệu tùy tính chất lý hóa, dạng thức, cách sử dụng, công dụng do chế tạo… sẽ cho ra các hiệu quả sử dụng và hiệu quả thị giác như sau: giòn, dẻo, đặc, thô, sần, nhám, mịn, bóng, láng, trong, đục, nặng nhẹ. Nó cũng thường tồn tại ở các dạng: hạt, bột, sệt, nhão, lỏng, đặc, khối, tảng, tấm, miếng, thanh, thỏi, sợi.
Mỗi loại chất liệu có những màu sắc, trạng thái, mức độ gợi những cảm giác về chất ở bề mặt khác nhau. Tuy nhiên, mỗi loại chất liệu có tuổi thọ khác nhau và chắc chắn rằng nó sẽ không tồn tại vĩnh cửu cho dù là đá, sắt thép, kim cương.
Trong sử dụng, vì tính chất hóa lý khác nhau, nếu không biết sự xung khắc giữa chúng với nhau mà phối hợp, pha trộn sẽ xảy ra những phản ứng hóa học, gây cháy, nổ, bốc mùi, bốc khói, làm giảm tuổi thọ của công trình thậm chí gây hại cho chính người đang thao tác với nó…
Ở đây, chúng ta không thể không nhờ tới công lao của các nhà hóa học đã có nhiều công sức để nghiên cứu, pha trộn tạo ra những chất liệu mới có nhiều ưu điểm hơn những chất liệu đã có.
Trong mỹ thuật, kiến trúc, thiết kế đã sử dụng những chất liệu trong các công trình, tác phẩm.
2. Các cách phân loại chất liệu:
a. Chất liệu thật:
Chất liệu thật là những dạng vật chất nguyên thủy với các đặc tính hóa học riêng biệt đúng với tên gọi của nó. Nó thật về cấu trúc vật chất và các đặc tính về hóa lý.
Đây là chất liệu có thật chứ không phải là “giả chất liệu”. Nó là chất liệu mà chúng ta có thể sờ mó, cảm xúc khi được sờ vào.
Thí dụ chúng ta có cái bàn gỗ, cánh cửa sắt, cái chén sành
Chất liệu: gỗ, sắt, sành là ba chất liệu thật sự dùng để tạo nên đa dạng đồ đạc phục vụ cho nội thất, đời sống. Nó khác với hình vẽ như thật về: cái bàn gỗ, cánh cửa sắt hay cái chén sành. Nó không phải chỉ là cảm giác như thật khi xem hình vẽ ba món đồ đạc nói trên mặc dù ba hình vẽ đều tả chất rất giống.
Trong kiến trúc, trang trí, thiết kế nội ngoại thất, nghệ thuật kim hoàn, chất liệu thật giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong cảm xúc sáng tác và hiệu quả tác phẩm, đồ vật hay công trình.
b. Chất liệu giả:
Một là nói tới tài năng diễn tả, chép giống y như thật của một họa sỹ, nhà điêu khắc nào đó: hình vẽ cái bàn gỗ, hình vẽ cánh cửa sắt, hình vẽ cái chén sành.
Thí dụ, họa sỹ Đỗ Quang Em là người vẽ tranh tả thực rất giống, trong đó có tài năng vẽ giả chất liệu. Những chất liệu mà ông tả là những chất liệu giả, chúng ta không sờ thấy mà chỉ nhìn thấy “như thật” mà thôi.
Hai là trên thực tế ứng dụng trong đời sống, người ta không chỉ
“vẽ” để giả chất liệu mà là dùng chất liệu này để “giả” chất liệu khác. Đó là cả một khoa học, ứng dụng nhiều giải pháp kỹ thuật hiện đại.
Ngày nay, trong trang trí kiến trúc, trang trí nội thất, nghệ thuật thiết kế nữ trang, nghệ thuật dệt, nghệ thuật may mặc người ta từng tạo rất nhiều chất liệu giả.
Thí dụ người đúc các sản phẩm trang trí bằng polymer để giả thủy tinh, giả đá, giả gỗ dùng xi măng, dùng giấy để giả đá, dùng kim loại để giả xi, mạ mà giá ra vàng, bạc.
c. Các cách phân loại chi tiết về chất liệu:
Phân loại theo vật chất bình thường: giấy (các loại), vải bố (các loại), nhựa, da gỗ, simili, đá, kim loại (đồng, thau, nhôm, sắt, gang), sành, sứ, thủy tinh, pha lê, thạch cao.
Phân loại theo chất liệu dùng để diễn tả: bút chì, sáp, phấn, than, màu bột, màu nước, màu dầu, tempera, dán giấy, dán vải, tổng hợp.
Phân loại theo cảm giác về chất; mịn, láng, bóng, sần, thô, nhám, trong, đục, nặng, nhẹ cứng, mềm, xốp, dẻo…
Phân loại chất liệu như là dạng ngôn ngữ, yếu tố thị giác gồm có: điểm, nét, đường nét, màu sắc, ánh sáng, họa tiết, chất liệu.
3. Vai trò của chất liệu:
Trong lĩnh vực hình thức thì chất liệu cũng giữ vai trò quan trọng trong việc truyền đạt, khêu gợi cảm xúc và làm tăng giá trị về tuổi thọ của công trình. Nói chung, chúng có các vai trò chủ yếu như sau:
- Làm tăng cảm xúc cho màu đi với chất;
- Tạo sự biến đổi phong phú về chất, làm tăng cảm xúc thẩm mỹ;
- Tạo sự hài hòa về chất đối với môi trường lắp đặt tác phẩm;
- Tạo sự phong phú về cảm xúc đối với sự phối hợp chất liệu;
- Làm tăng tuổi thọ của tác phẩm, thuận lợi cho vận chuyển;
- Thay thế chất liệu thật (trường hợp dùng chất liệu giả) như trong các lĩnh vực điêu khắc (giả da, giả đồng, giả gỗ)…
4. Chất liệu và chất chủ động:
Cũng giống như màu sắc, sắc độ và đường nét trong khi sử dụng chất liệu để diễn tả ý tưởng nội dung chủ đề của tác phẩm.
Các chất liệu ấy sẽ khêu gợi từ bên trong chúng ta một chuỗi những cảm giác về chất do chính bản thân chất liệu được sử dụng tạo ra.
Cho nên khi đã xác định được màu chủ đạo, chủ sắc, đường nét chủ đạo, khối chủ đạo (trong lĩnh vực tạo dáng) thì chúng ta còn phải xác định “Chất liệu chủ đạo’.
Bởi vì, loại chất liệu nào ngự trị trong tác phẩm sẽ gợi cho người xem loại cảm xúc riêng vì vậy việc xác định chất sần, mịn hay bóng là chất chủ đạo là điều cần thiết.
Việc xác định chất chủ đạo trong tranh tùy thuộc vào nội dung tùy vào khả năng biểu hiện của mỗi loại chất liệu hoặc tùy vào sở trường diễn tả của mỗi nghệ sỹ. Thông thường thì chất liệu chủ đạo trong tranh trang trí tùy thuộc vào chất liệu của môi trường sẽ lắp đặt nó.
Bởi lẽ, nó sẽ phối hợp với chất liệu của môi trường một cách thật hữu ích và đẹp mắt.
Việc chọn lựa chất liệu để thiết kế, thể hiện y phục thường tùy thuộc vào thời tiết, khí hậu, mục đích sử dụng loại y phục… Việc chọn chất liệu chủ đạo của y phục tùy thuộc vào ý tưởng, chủ đề của trang phục; dựa vào hình dáng của người mẫu, của loại y phục; dựa vào công năng của loại y phục; dựa vào thời tiết, khí hậu; dựa vào hiệu quả, ấn tượng về màu sắc cũng như giải pháp phối hợp cảm giác về chất liệu.
Việc chọn lựa chất liệu để sử dụng trong kiến trúc hay trang trí nội, ngoại thất thường tùy thuộc vào loại công trình, công năng, thời tiết, khí hậu, địa chất, thổ nhưỡng; tùy vào đặc điểm kết cấu; tùy vào phong cách kiến trúc, trang trí; tùy thuộc vào ý tưởng về kiểu dáng hoặc màu sắc; tùy vào tinh thần của công trình hay nhu cầu đổi mới hoặc để gây ấn tượng.
Bởi vì, khi sử dụng màu thì chúng ta xác định màu chủ đạo để dựa vào đó mà tìm màu nhấn (là loại màu tương phản với màu chủ đạo).
Khi sử dụng chất liệu cũng vậy phải xác định chất liệu chủ đạo để từ đó tìm loại chất liệu giữ vai trò “nhấn” (chất dùng để nhấn cũng phải là chất tương phản với chất chủ đạo). Thí dụ chất chủ đạo là thô, sần thì chất dùng để nhấn phải là mịn hay bóng láng.
Song song với việc tạo dáng, kiểu mẫu, sử dụng màu sắc và chất liệu. Các nhà thiết kế thời trang, trang phục cần phải hiểu rõ và thực hành nhiều về mặt này.
Đặc biệt là ảo giác do chất liệu tạo nên. Thí dụ nếu chúng ta mặc y phục may bằng len sù thì khi nhìn vào, người xem cảm thấy ta có vẻ mập hơn lúc mặc y phục được may bằng chất lụa, thun mòn hoặc mouslin.
Ngày nay trong lĩnh vực thiết kế, người ta luôn lưu ý đến việc bảo vệ môi trường thông qua sự sử dụng chất liệu.
B. HỌA TIẾT
1. Họa tiết và Họa tiết là gì?
- Họa tiết là một loại hình vẽ ở dạng đã được đơn giản hay cách điệu. Nó được coi như là một kiểu mẫu, một đơn vị nhỏ của hình thức trang trí. Nó có thể được xem như là một “đơn nguyên” được sáng tác ra nhằm mục đích sử dụng cho các loại trang trí cần có sự lặp đi lặp lại như: trang trí vải hoa, trang trí giấy gói hàng, trang trí giấy dán tường, trang trí cửa sắt hoặc loại tranh trang trí.
Tiếng Anh gọi là “Pattern” còn tiếng Pháp gọi là “Motif”. Họa tiết là thuật ngữ được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực nghệ thuật trang trí. Họa tiết có thể ở dạng đơn lẻ hay dạng ghép hoặc dạng nhóm.
Mỗi họa tiết có tinh thần hay phong cách riêng: thô cứng, mềm mại, cổ điển hay hiện đại.
Thông thường thì chúng ta cũng nên quan tâm đến khái niệm họa tiết ở dạng hai chiều và ba chiều (hình khối như là họa tiết trong điêu khắc, chạm trổ) dẫu biết rằng trước khi tạo nên họa tiết ba chiều thì nó phải trải qua giai đoạn vẽ trên mặt phẳng.
Nhưng nếu chúng ta không quan tâm đến điều này thì trong lĩnh vực thiết kế ba chiều sẽ khó hình dung được sự liên kết thật hợp lý giữa chúng với nhau. Nghĩa là không những chúng ta phải quan tâm đến cái đẹp trên hình vẽ phẳng mà còn phải chú ý đến cái đẹp trên dạng vật thể khối. Nói cách khác là việc biến chuyển một họa tiết ở dạng phẳng sang dạng hình khối cũng là một vấn đề cần quan tâm. Bởi lẽ, cái đẹp trên giấy khác với cái đẹp ở trạng thái ba chiều. Ở hình khối ba chiều thì nó được xem ở nhiều hướng, nhiều góc độ.
Chúng ta thường gặp họa tiết xuất hiện trên vải hoa, trên giấy gói quà, trên đồ trang sức, trên đồ gốm sứ, trên diềm tường các công trình kiến trúc, trên đồ gỗ chạm…
2. Làm cách nào để tạo nên họa tiết:
Khi đặt câu hỏi này, tức là chúng ta hỏi đến quy trình hay phương pháp sáng tạo nên một họa tiết.
Họa tiết là hình vẽ có được do sự sáng tạo của các họa sỹ thông qua quá trình vẽ nghiên cứu, đơn giản và cách điệu từ thực tế cuộc sống.
Họa tiết có thể ở dạng hình vẽ đã thông qua giai đoạn đơn giản hay giai đoạn cách điệu. Thuật ngữ cách điệu hay còn gọi là kiểu thức hóa. Công việc cách điệu luôn luôn tiếp theo sau giai đoạn đơn gainr.
Thực chất của việc cách điệu chính là sự sáng tạo để “cá tính hóa, cá nhân hóa” một hình vẽ để cho hình vẽ, mẫu vẽ hoàn toàn mang “cái riêng” của từng gác giả.
Cái riêng đó chính là cá tính, đặc điểm của mỗi người. Cá tính đó có thể được biểu hiện qua tinh thần đường nét, màu sắc của họa tiết: mạnh mẽ hay mềm mại, thanh thoát hay nặng nề; cầu kỳ hay đơn giản, màu nóng hay lạnh, tươi hay tái, trầm lắng hay rạng rỡ.
3. Mỗi họa tiết là một công trình sáng tạo:
Họa tiết có thể là sự tưởng tượng, sáng tạo hoàn toàn hoặc do sự cải biên một họa tiết có sẵn trước đó. Họa tiết chính là hình ảnh nhỏ nhất, đơn giản nhất của quá trình sáng tạo. Họa tiết có thể ở dạng đơn hoặc kép.
Mỗi loại họa tiết đều dược họa sỹ nghiên cứu, sáng tạo để dùng cho một môi trường, tình huống cụ thể chứ không thể nào hoặc ít khi dùng chung cho tất cả mọi nơi.
Vẻ đẹp của một họa tiết được đánh giá từ sự hoàn thiện nội tại (hình dáng, màu sắc, đường nét, nhịp điệu ngay trong chính bản thân nó) và sự phối hợp của nó trong môi trường, tình huống cụ thể. Trên thực tế, có khi một họa tiết rất đẹp nhưng đặt vào một vị trí không thích hợp thì hiệu quả chung kém đi.
Do vậy khi sử dụng họa tiết đôi khi chúng ta phải áp dụng biện pháp “biến điệu” để sáng tạo cho nó phù hợp với môi trường ứng dụng mới (biến điệu về hình, màu sắc và phong cách của đường nét).
Ghi chú: Biến điệu là thay đổi về độ lớn, sự cân đối, về màu sắc, về tính chất đường nét, về chất liệu bề mặt của một họa tiết vốn đang có sẵn… để cho nó “ăn nhịp” vào một môi trường mới đang có những dạng thức hơi khác với họa tiết gốc. Như vậy, khi phối hợp một họa tiết vào môi trường mới thì chúng ta coi “môi trường mới” này là “chủ” còn họa tiết sẽ phối hợp vào là “khách”. Và quy luật “khách phải tùy theo chủ” là điều tất yếu. Do vậy, thuật ngữ biến điệu là dùng cho “khách” chứ không phải cho “chủ”.
4. Họa tiết và các kỹ thuật thể hiện:
Sáng tạo được một họa tiết là điều rất khó, nó thông qua quy trình vừa kể trên với tinh thần sáng tạo và độc đáo hóa. Đặc biệt là mỗi họa tiết sẽ được thể hiện thông qua ở dạng hình phẳng rồi từ họa tiết này có thể lại chuyển sang kiểu họa tiết dùng chung cho một loại kỹ thuật thể hiện cụ thể là một công trình nghiên cứu thực hành (có khi là hình khối ba chiều).
Thí dụ cùng một họa tiết mà muốn thể hiện thông qua kỹ thuật in lưới thì phải có cách vẽ khác với mẫu để in kẽm để khắc gỗ hoặc để thêu, đan, đục đá, khắc trên thủy tinh, làm khuôn để in vào sắt hoặc để uốn bằng kim loại trong trang trí đồ sắt…
Cách thức thể hiện họa tiết nào cũng phải bảo đảm tính khả thi về mặt kỹ thuật (cụ thể) và tính thẩm mỹ.
5. Họa tiết, phong cách và thời đại:
Cũng giống như phong cách thời đại, mỗi một thời đại, dân tộc có một dạng họa tiết khác nhau. Họa tiết thường đi đôi với phong cách thười đại hoặc phong cách cá nhân. Nó được tạo nên do quan niệm về thẩm mỹ, văn hóa, đời sống, nhân sinh quan, triết học, tôn giáo, tâm linh, quyền lực. Thí dụ họa tiết trên hình tượng Con Rồng Việt Nam thay đổi qua các triều đại: Lý, Trần, Lê, Nguyễn bộc lộ quan niệm về thẩm mỹ, quyền lực, tinh thần giai cấp.
Họa tiết trang trí trên hàng rào sắt của các công trình kiến trúc ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay cũng thay đổi rất nhiều. Ngày xưa đa số là được tạo mẫu của lĩnh vực này do kỹ thuật rèn và đúc khuôn ảnh hưởng kỹ thuật của người Pháp.
Ngày nay là kiểu mẫu được gò, uốn hoàn toàn hay phối hợp giữa kỹ thuật uốn, đúc, dập khuôn hay hoàn toàn do kỹ thuật đúc mà ra.
Họa tiết trang trí của Pháp thời Louis 14 khác với thời Louis 16, họa tiết theo phong cách Gothique, khác phong cách Rococo, Baroque, phong cách nghệ thuật mới.
Nói chung, họa tiết là một công trình sáng tạo, một dấu ấn về lịch sử văn hóa nghệ thuật: nó gián tiếp nói lên ý tưởng thẩm mỹ của một dân tộc, một khu vực, một cá nhân trong một thời đại nhất định.
Chất liệu gốc khác chất liệu bề mặt
Họa tiết cho dù đơn lẻ hay tổ hợp cũng đều là công trình sáng tạo
>>> Con mắt nhìn cái đẹp - Các chất liệu kỹ thuật
>>> Các loại họa tiết trong tranh Hàng Trống (Phần 1)