Khung tranh
Khung tranh giúp một tác phẩm nghệ thuật tách biệt với những thứ ở xung quanh. Chúng tựa như giúp ta di chuyển được cả thân thể lẫn tinh thần từ không gian này sang không gian khác, khi ta đi qua một ô cửa, nhìn qua một khung cửa sổ hay khi ta mở nắp nhìn vào một chiếc rương. Những chiếc khung báo hiệu cho người xem biết rằng tác phẩm nghệ thuật mà chúng đang bao bọc cái gì đó rất khác lạ, đặc biệt và quý giá.
Chiếc cánh bên phải của thiên thần được chạm khắc theo phong cách đánh lừa thị giác trong tác phẩm tranh bộ đôi diptych Truyền tin của Jan van Eyck (khoảng năm 1435) đổ bóng lên chiếc khung được vẽ lên bề mặt bức tranh, như thể chiếc cánh đang sắp sửa bay lên trông khá kỳ lạ và vui mắt.
Khung là một quy cách quen thuộc dùng để trưng bày những bức tranh và bức ảnh, cũng như các tác phẩm điêu khắc phù điêu, nghệ thuật sắp đặt và các hình thức trưng bày nghệ thuật trong nhà khác. Tuy nhiên, không nhất thiết phải đóng khung các tác phẩm nghệ thuật. Vào thời cổ đại, những hình vẽ trong hang động và những công trình nghệ thuật trên mặt đất thời tiền sử được thể hiện trên những bề mặt được giới hạn chỉ bởi những đặc điểm tự nhiên. Đến thời hiện đại, những loại hình nghệ thuật vào cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI như nghệ thuật địa hình, nghệ thuật trình diễn và nghệ thuật internet có thể được sáng tác và trình diễn ngay tại chỗ, định hình nên những không gian thực tế hoặc không gian ảo bởi chính sự hiện hữu của chúng.
Những vật liệu dùng để đóng khung thời xưa gắn kết những tác phẩm nghệ thuật với việc bài trí kiến trúc để cả hai có thể tương tác lẫn nhau. Các tác phẩm điêu khắc trong đền thờ ở Hy Lạp được đóng khung bởi những chi tiết kiến trúc của đền thờ; những bức tranh tường và tranh khảm La Mã được lông trong những chiếc khung trơn hoặc khung được trang trí nhằm mô phỏng lại những đường gờ hoặc đường diềm bằng vải. Vì vật liệu dùng để đóng khung là một phần của một cấu trúc cố định, nên tac sphaamr nghệ thuật luôn luôn thuộc về nơi mà chúng đã được gắn vào. Thời cổ đại, cũng có những bức tranh có thể di chuyển được, mặc dù ta không biết những tác phẩm này đã được đóng khung và trưng bày như thế nào.
Đối với Howard Hodgkin, khung tranh là một phần của bức tranh, chẳng hạn như trong tác phẩm Chez Max (1996-97). Hodgkin thừa nhận rằng ông đã “ngạc nhiên khi khung tranh rất hiếm khi được sử dụng trong nghệ thuật thế kỷ XX, bởi chúng chỉ ra rằng vật thể tranh ảnh… chỉ là vật thể”
Trong các nhà thờ thời Trung cổ, những bức tranh được đóng khung lại để biến chúng thành những đồ trang trí nội thất đường bệ. Những bức tranh trang trí bàn thờ thường được lồng trong những chiếc khung tinh xảo, gợi lại những hình thức và chi tiết kiến trúc bằng đá kiểu Gothic. Được đặt ở vị trí tâm điểm của tòa nhà, những chiếc khung được chạm khắc và thếp vàng này khẳng định sự hiện diện của mình với tư cách là những đồ vật quý giá. Việc đóng khung những hình ảnh thánh thiêng cũng nhấn mạnh giá trị tâm linh vô giá của chúng. Những ảnh tượng Chính thống giáo đôi khi cũng được lồng trong những chiếc khung như đồ trang sức hay những linh vật trong hòm đựng thánh tích.
Với sự phát triển của phối cảnh tuyến tính vào thế kỷ XV, khung tranh trở thành một phần của một bức tranh về mặt khái niệm. Khi người xem nhìn vào không gian phía sau bề mặt của một bức tranh ảo giác, họ có thể bị nhầm lẫn giữa không gian nghệ thuật với không gian thực tế nếu không có gì phân cách, do đó hình dạng chiếc khung được vẽ lên trên bề mặt bức tranh này giúp tạo nên một sự phân biệt rạch ròi. Những nghệ sĩ hiện đại có những ý kiến trái chiều đối với khung tranh khi phá bỏ những quy ước cũ về không gian ảo giác. Như nhà phê bình Clement Greenberg đã nhận định, tranh tĩnh vật trường phái Lập thể dường như nổi lên về phía trước chứ không phải ở phía sau bề mặt của bức tranh – điều này diex nhiên đã làm cho những chiếc khung tranh truyền thống trở thành một phần không thể thiếu đối với các tác phẩm Lập thể cũng như đối với các tác phẩm của Piero della Francesca. Vào giữa thế kỷ XX, một nhận thức mới cho rằng chính bản thân bức tranh cũng là một vật thể trong không gian – đó là một tác phẩm điêu khắc phẳng được đắp những hình khối và màu sắc phía trên – đã khiến cho những chiếc khung không còn được ưa chuộng và dẫn đến thói quen trưng bày những bức tranh lớn mà không được đóng khung. Trong tranh của Howard Hodgkin, khung tranh vừa giúp định hình vừa là một phần gắn liền với bức tranh. Vì màu sơn trong bức tranh đã loang ra khung tranh, nên có vẻ như chính không gian của bức tường xung quanh đang bao bọc lấy và nhấn mạnh hình ảnh của bức tranh.
Chiếc khung tranh bằng gỗ này được mạ bằng vàng, đá quý, nhung và men sứ, được làm ra vào khoảng năm 1560 với mục đích để giữ bức tranh Đức Mẹ Đồng Trinh Hodegetria ("Đức Mẹ là người chỉ đường") và Chúa Hài Đồng.
>>> Xem tranh
>>> Học vẽ tranh sơn dầu (Phần 1)