Khi kiến trúc và trang trí cùng lên tiếng
Lịch sử kiến trúc nghiên cứu sự phát triển và lịch sử của nền kiến trúc thế giới thông qua việc nghiên cứu các ảnh hưởng ở các góc độ khác nhau như nghệ thuật, văn hóa, chính trị kinh tế và kỹ thuật. Nhìn chung, nhiệm vụ của lịch sử kiến trúc là phải xây dựng được mối quan hệ giữa ý nghĩa biểu cảm vô hình của công trình kiến trúc (ngữ nghĩa, chức năng, biểu tượng…) với sự thể hiện hữu hình của các đối tượng kiến trúc (kich thước, vật liệu, thành phần của kiến trúc…) và đặt vào trong một nghiên cứu tổng thể của thời điểm lịch sử. Điều đó có nghĩa là dưới một cùng một sự kiện ta có thể có nhiều cách nhìn nhận và suy diễn khác nhau, phụ thuộc vào hoàn cảnh quan sát. Từ đó cho phép nảy sinh ra một số lượng lớn các quan điểm nghiên cứu về lịch sử kiến trúc đặc biệt ở phương Tây.
1. Ấn Độ:
Một trong những nền văn minh lâu đời nhất ở Châu Á là Ấn Độ, là nơi khởi nguồn của nên văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, sớm hình thành nên các tuyến đường mậu dịch mang tính quốc tế cùng những Đế quốc rộng lớn, các Đế quốc này trở nên giàu có, thịnh vượng do thương mại cùng sức mạnh văn hóa – quân sự mang lại trong suốt chiều dài lịch sử của mình.
Ở tiểu lục địa Ấn Độ, điêu khắc dường như là phương tiện biểu đạt nghệ thuật được ưa chuộng. Ngay cả kiến trúc và những bức tranh nhỏ còn sót lại từ thời kỳ đầu cũng góp phần tạo nên bản chất của điêu khắc. Điều này đặc biệt đúng với kiến trúc khắc trên đá, thường ít hơn tác phẩm điêu khắc trên quy mô khổng lồ. Các công trình kiến trúc cũng được trang trí lộng lẫy bằng tác phẩm điêu khắc thường không thể tách rời khỏi nó. Mối quan hệ chặt chẽ giữa kiến trúc và điêu khắc cần phải được tính đến khi xem xét các tác phẩm riêng lẻ, ngay cả khi hoàn chỉnh về bản thân chúng, cũng là những mảnh vỡ thuộc một bối cảnh lớn hơn. Điêu khắc Ấn Độ, đặc biệt là từ TK X trở đi, do đó không thể được nghiên cứu một cách riêng lẻ mà phải được coi là một phần của một thực thể lớn hơn với tổng tác dụng mà nó đóng góp và từ đo nó có được ý nghĩa.
Rất khó để khái quát về phong cách một truyền thống điêu khắc kéo dài trong khoảng thời gian gần 5.000 năm, nhưng rõ ràng là chất liệu khác biệt cảu điêu khắc Ấn Độ là tính dẻo dai của nó rất rõ ràng trong điêu khắc Sanchi và Mathura từ TK I – III. Các hình thức được coi là sự phồng lên từ bên trong để phản ứng với sức mạnh của cuộc sống bên trong, chức năng của nhà điêu khắc là làm cho những hình thức này biểu hiện rõ hơn. Đồng thời, một tầm nhìn về hình thức được tạo ra từ bên ngoài thay vì được mô phỏng từ bên trong, chẳng hạn như ở Bharhut. Lịch sử của phần lớn nghệ thuật điêu khăc Ấn Độ , được đánh dấu bằng những giai đoạn đạt thành tích cao bùng bổ với sự sáng tạo. Sau đó là những giai đoạn mà những tiềm năng đã được mặc định dần dần được phát huy, về cơ bản là sự tương tác của hai khuynh hướng thống trị này.
a. Kiến trúc tôn giáo huyền bí đầy hoài niệm:
Hình thức trang trí kiến trúc phổ biến nhất trong văn hóa Ấn Độ là điêu khắc. Điêu khắc gắn bó hữu cơ với công trình, là yếu tố quan trọng trong thiết kế kiến trúc. Điêu khắc đóng vai trò truyền tải thông tin của tôn giáo như hình ảnh các vị thần, các điển tích điển cố tạo nên tôn giáo… Điêu khắc trên một công trình có thể dày đặc đến mức mà có câu nói: “Ở Ấn Độ, người ta không biết đó là một công trình kiến trúc hay một tác phẩm điêu khắc”. Không có một phân vuông nào mà không có chạm trổ. Tuy nhiên để đi tới được thời kỳ Phong cách Gupta – thời kỳ mà nghệ thuật điêu khắc kiến trúc nở rộ nhất ta phải đi từ tiến trình lịch sử, từ khi chưa có khái niệm điêu khắc cho tới lúc nó trở thành một khái niệm không tách rời khi ta nhắc đến kiến trúc truyền thống đặc trưng Ấn Độ.
Chùa hang Ajanta ở Ấn Độ
b. Kiến trúc thời Vua Ashoka Đại đến 264 – 277 trước Công nguyên:
Tác phẩm điêu khắc đáng chú ý của Vương triều Maurya là những thạch trụ hoàng gia ghi những sắc lệnh của các vua và những lời dạy của Phật. Nổi bật hơn cả là cột đá chạm khắc các sắc lệnh của Vua Ashoka. Chúng được làm bằng sa thạch chunar màu kem tuyệt đẹp. Đầu cột của những thạch trụ này là những hình chạm trổ tinh vi thể hiện những kỹ năng khéo léo tinh xảo.
Đầu cột ở Sarnath là một trong những cột trụ dựng dưới thời Vua Ashoka mà còn nguyên vẹn cho đến nay. Trên đỉnh của cột là bốn con sư tử đứng đấu lưng vào nhau, chúng là biểu tượng của hoàng gia và đức phật bởi theo truyền thuyết đức phật là con sư tử của dòng tộc Thích ca (Shakya), ngài mang dòng máu hoàng tộc. Bốn con sư tử oai vệ này ngự trên một trụ đứng với những hình chạm khắc nổi của bốn con thú và bốn bánh xe đan xen nhau. Ở thời bấy giờ, đức phật chưa được hiển thị trong hình dáng người mà chỉ ở hình ảnh tượng trưng. Vì vậy những bánh xe ở đây là biểu tượng của phật pháp của đức phật và ngài đang thuyết giảng bài pháp của mình.
Những con thú trên trụ đứng tượng trưng cho những vị thần không thuộc phật giáo phục vụ cho đức phật. Ví dụ: bốn con thú quay bốn hướng là biểu tượng cho vị thần linh của hindu giáo, con ngựa là biểu tượng của vị thần mặt trời khi ngài đi ngang qua bầu trời bằng chiếc xe ngựa. Bò là một vị thần trong đạo Hindu. Voi là bánh xe của vua trời đế thích (Indra) sư tử hiện thân của thần Durga.
Đế / bệ tượng là một cái chuông lật úp cách điệu hình một đóa sen, hình ảnh tượng trưng cho sự thuần thiết của linh thể khi hiển lộ trong cõi phàm trần bởi hoa sen trong sạch và tinh khiết dù mọc trong nước bùn.
Các trụ đá Asoka và những sắc lệnh khắc trên trụ đá là một trong những tac phẩm điêu khắc được biết đến sớm nhất, mở đầu cho nền nghệ thuật Phật giáo. Đó là những công trình kỳ vĩ của một nền văn minh đỉnh cao thời cổ đại. Nghệ thuật Phật giáo thời kỳ Asoka của triều đại Maurya là tiền đề quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển của phong cách nghệ thuật sau đó tại Ấn Độ, cũng như phổ biến nền mỹ thuật Phật giáo ra khắp các châu Á.
2. Trung Quốc:
Kiến trúc cổ điển Trung Quốc không chỉ thể hiện các quan niệm về cư trú truyền thống mà còn thể hiện thẩm mỹ cá nhân của người Trung Quốc. Hơn nữa, chúng tích hợp đạo đức, cấu trúc xã hội và cách nhìn nhận thế giới. Kiến trúc không thuộc về nghệ thuật thông thường nhưng một số người hiểu biết nghĩ rằng nó được kết nối với nghệ thuật và không có sự so sánh nào giữa nó với các nghệ thuật chính thống như hội họa và thư pháp. Kiến trúc thường xếp cùng với kỹ thuật thợ mộc. Người Trung Quốc cho rằng kiến trúc tương tự như các công việc thủ công dựa trên kỹ thuật khác. Nói cách khác, kiến trúc kém thanh lịch và đáng kể hơn so với nghệ thuật chính thống. Tuy nhiên, sức hấp dẫn của kiến trúc cổ điển Trung Quốc vẫn còn tràn ngập. Nó không nằm trong một mảng đơn lẻ mà là sự lồng ghép hài hòa giữa các bộ phận và tổng thể kiên trúc và cách nhìn bố cục không gian độc đáo. Các tác phẩm điêu khắc trang trí được sử dụng trong kiến trúc đóng một vai trò thiết yếu trong việc tương phản sự quyến rũ của kiến trúc.
a. Ngói chạm khắc thời nhà Tần 221 – 206 TCN:
Kiến trúc thời Chiến Quốc có một số khía cạnh nổi bật. Các bức tường thành, được sử dụng để phòng thủ, được xây dài hơn. Một số bức tường thứ cấp đôi khi cũng được xây dựng để tách các quận khác nhau. Những công trình có cấu trúc lớn được xây dựng để tạo ra cảm giác về quyền lực tuyệt đối. Nhiều ngôi nhà, tòa tháp, cổng trụ lớn được xây dựng ở thời kỳ này. Kể từ đầu thời nhà Tần, chạm khắc trên gạch và đồ trang trí bằng ngói trên mái hiên đã trở nên phổ biến. Hầu hết các di sản kiến trúc của triều đại nhà Tần, chạm khắc trên gạch và đồ trang trí bằng ngói trên mái hiên đã trở nên phổ biến. Hầu hết các di sản kiến trúc của triều đại nhà Tần đều sử dụng đồ trang trí bằng ngói nửa tròn và nửa tròn với các mục đích trang trí đặc biệt. Mái ngói trang trí là phần nhô ra trên mái hiên. Nó chủ yếu được sử dụng để chống thấm và thoát nước, bảo vệ khung gỗ của mái nhà, cũng như cho mục đích trang trí. Trong thời Chiến quốc, hầu hết các đồ trang trí trên mái hiên của nhà Hán đều được chạm khắc hoa văn của đôi chim hoặc con thú, trong khi của nhà Tần được chạm khắc với hoa văn cây cối và mây. Một số đồ trang trí mái hiên tròn của nước Tần và nước Triệu được thiết kế với các hoa văn chim, thú hoặc khe núi.
Ngói rỗng lớn của triều đại nhà Tần được ưa chuộng hơn ngói trang trí trên mái hiên. Một số được thiết kế với các tác phẩm điêu khắc phù điêu rỗng và phượng; những người khác sử dụng kỹ thuật cắt dòng để hiển thị hình ảnh săn. Những viên gạch thể hiện đầy đủ trình độ điêu khắc và sức mạnh thời Tần. Do đó, triều đại nhà Tần và nhà Hán lần lượt nổi tiếng với các tác phẩm chạm khắc trên ngói và đồ trang trí trên mái hiên.
Các ký tự chạm khắc trên mái hiên – đồ trang trí bằng ngói trở nên phổ biến trong thời kỳ này, phản ánh những thành tựu huy hoàng trong thư pháp và văn học. Tất cả các ký tự đều thể hiện mong muốn trường thọ hoặc hạnh phúc. Tuy nhiên, mỗi ký tự đều có bố cục và kiểu dáng. Do đó, sự kêt hợp của chúng có nhiều dạng. Bên cạnh các ký tự, cũng có các mẫu động vật và sự kết hợp của các ký tự và hoa văn. Trong số các hoa văn động vật, điển hình trong thời nhà Hán là hoa văn của “Tứ linh”, bao gồm Thanh long, Bạch hổ, Chu tước và Huyền vũ. Mỗi con vật thần dược chạm khắc theo hình tròn mà không có bất kỳ sự ràng buộc nào về cảm giác. Các chạm khắc mạnh mẽ và mượt mà là kiệt tác rực rỡ của hoa văn cổ đại.
b. Các tác phẩm điêu khắc phù điêu trên tháp que từ thời Đông Hán:
Những công trình kiến trúc trang trí này rất phổ biến vào thời Đông Hán. Tháp Que ở phía trước các ngôi mộ là phổ biến, trong khi những tháp ở phía trước của các ngôi đền là rất hiếm. Tháp Que còn sót lại từ thời Đông hán chủ yếu ở các tỉnh Tứ Xuyên, Hà Nam và Sơn Đông. Tuy nhiên, tháp Que ở Tứ Xuyên nổi bật nhờ kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Mỗi góc của mái hiên tháp bao gồm các tác phẩm điêu khắc phù điêu. Ví dụ, tháp Que ở phía trước ngôi mộ của đạo sư Pingyangfu bao gồm hai con hổ chiến đấu trên mỗi góc của mái hiên tháp. Một số tháp Que phía trước các ngôi mộ có các bức phù điêu khắc hình bốn con vật thần và thể hiện phong cách Hán điển hình. Có 35 tháp Que bằng đá được khai quật từ thời nhà Hán, trong đó có 5 tháp có lịch sử xác minh. Sau vài nghìn năm hầu hết đều bị hư hại và các tác phẩm điêu khắc của họ bị hư hại. Vì vậy các tòa tháp mang ý nghĩa lịch sử hơn là giá trị thẩm mỹ. Tuy nhiên, cái nhìn tổng thể của các tác phẩm điêu khắc tưởng niệm nhà Hán vẫn có thể được nhìn thấy từ các tác phẩm điêu khắc hiện có trên tháp Que bằng đá. Nói chung, tháp Que bằng đá thời nhà Hán là duy nhất trong kiến trúc truyền thống của Trung Quốc. Sau thời nhà Hán, các tác phẩm điêu khắc và tranh tường khác nhau trên tháp Que vẫn thường được nhìn thấy. Theo thời gian, tháp Que phát triển thành cổng chào và bức tường bình phong.
Điêu khắc thời Hán
Tháp que
Là một dạng kiến trúc độc đáo của Trung Quốc cổ đại bao gồm một lối đi ở giữa. Nó thường được xây dựng ở hai bên cung điện hoặc lăng mộ để trang trí và bảo vệ. Các tháp Que thời kỳ đầu sử dụng kết cấu bằng đá và gỗ. Hầu hết các tháp Que hiện đang được bảo tồn là những tháp bằng đá.
c. Các điêu khắc phù điêu trong Càn Lăng Quainling Mausolum:
* Điêu khắc:
Trong các triều đại nhà Tùy và nhà Đường, điêu khắc trang trí được sử dụng rộng rãi do sự phát triển của các tòa nhà cung điện và bia mộ. So với triều đại nhà Tần và nhà Hán, nhà Tùy và nhà Đường cho ra đời những tác phẩm điêu khắc trang trí lộng lẫy hơn nhưng lại làm mất đi giá trị nghệ thuật của cá mẫu ngói. Hầu hết các tòa nhà cung điện trong thời nhà Đường đều được làm bằng gạch với các hoa văn hình hoa sen và trái nho.
* Tranh tường: Nét đặc trưng quan trọng khác của tranh tường trong mộ là diện mạo kiến trúc. Mặc dù có rất nhiều ví dụ về tháp chùa bằng gạch và đá thời Đường hiện có để các sử gia kiến trúc khảo sát, nhưng chỉ còn lại sáu chính điện chùa bằng gỗ tồn tại từ thế kỷ VIII và IX. Chỉ nền móng đất nện của các cung điện lớn tại kinh đô Trường An xưa là còn sót lại. Tuy nhiên, một vài bức tranh tường trong mộ Lý Trọng Nhuận có vẽ cảnh quang kiến trúc gỗ, các sử gia giả thiết đây là diện mạo của Đông cung, nơi ở của hoàng thái tử dưới triều nhà Đường. Theo nhà sử học Phó Hie Niên, không chỉ tranh tường trong mộ Lý Trọng Nhuận miêu tả các công trình tại kinh đô nhà Đường, mà còn “nhiều mộ thất dưới lòng đất, trục thông gió, khoảng ngăn và giếng thông hơi được xem như vết tích của nhiều mặt sân, chính điện, phòng gian và hành lang trong khuôn viên của chủ ngôi mộ khi họ còn sống. Tại chính điện ngầm trên đường dốc dẫn xuống mộ thất an táng Lý Trọng Nhuận cũng như cổng vào dẫn lối đến tiền thất, đều được bố trí tranh tường vẽ tháp cổng đa tầng dạng khuyết tương tự như các tòa tháp mà lớp nền móng của chúng từng khảo sát được tại Trường An.
d. Các tác phẩm điêu khắc kiến trúc trang trí triều đài nhà Tùy, Đường:
Trong các triều đại nhà Tùy và nhà Đường, điêu khắc trang trí được sử dụng rộng rãi do sự phát triển của các tòa nhà cung điện và bia mộ. So với triều đại nhà Tần và nhà Hán, nhà Tùy và nhà Đường cho ra đời những tác phẩm điêu khắc trang trí lộng lẫy hơn nhưng lại làm mất đi giá trị nghệ thuật của các mẫu ngói. Hầu hết các tòa nhà cung điện trong thời nhà Đường đều được làm bằng gạch với các hoa văn hình hoa sen và trái nho. Hoa văn hình hoa sen gắn liền với sự truyền bá Phật giáo ở Trung Quốc vào thời nhà Đường, trong khi hoa văn hình chữ nho được kết nối với sự giao lưu văn hóa giữa vùng đồng bằng trung tâm và các vùng phía Tây trong thời cổ đại. Mặc dù trang nhã và lộng lẫy, các tác phẩm điêu khắc kiến trúc kiểu nhà Đường kém trang nghiêm và quyền lực hơn kiểu nhà Tần và nhà Hán và thể hiện đầy đủ sự tự tin và sự khoan dung của nhà Đường. Kiến trúc bằng gỗ đã phát triển hơn nữa trong thời nhà Tống. Nhiều tòa nhà cung điện va đền thờ từ thời nhà Tống sử dụng đồ trang trí bằng sơn thay vì đồ trang trí điêu khắc quá mức do sự phát triển của khoa học nghệ thuật hội họa. Gạch chạm khắc được nhìn thấy trong các ngôi mộ.
Bức tranh sơn thủy “Du xuân đồ” của ông dùng thuật bôi phác họa, tô màu xanh lục, phối cảnh không gian hợp lý, chú ý quan hệ xa gần và tỷ lệ núi cây cùng nhân vật, trong gang tấc có đủ ý vị nghìn dặm. Điều này chứng minh tranh sơn Thủy thời Tùy giải quyết triệt để vấn đề xử lý không gian giữa người và cảnh vật, là đại biểu cho sự nổi lên của tranh sơn thủy, “Họa giám” thời Nguyên nhận định “Du xuân đồ” là thủy tổ chính thức của tranh sơn thủy.
Tháp Đại Nhạn hay chùa Đại Nhạn là một chùa Phật giáo nằm ở phía Nam thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Nó được xây dựng vào năm 652, dưới triều đại nhà Đường ban đầu có cấu trúc năm tầng tháp.
e. Các tác phẩm điêu khắc kiến trúc triều đại nhà Minh và nhà Thanh:
* Điêu khắc:
Nhiều tòa nhà từ triều đại nhà Minh và nhà Thanh vẫn còn tồn tại. Các tác phẩm điêu khắc kiến trúc cũng phổ biến. Bên cạnh các khu vườn cung đình, đền đài và lăng mộ, các tác phẩm điêu khắc kiến trúc dân gian cũng rất sâu sắc và tập trung vào các công trình công cộng như học viện, đền thờ tổ tiên và công trình thương mại. Sử dụng rồng và phượng hoàng làm đối tượng trang trí chính của các công trình và các kỹ thuật diêu khắc khác nhau như điêu khắc phù điêu cao và thấp, tác phẩm và chạm khắc hình tròn. Do đó, các công trình tinh tế và lộng lẫy hơn so với những tác phẩm của các triều đại trước và kết hợp hoàn hảo giữa tính năng trang trí và thực tế của tác phẩm điêu khắc. Mặc dù đồ trang trí điêu khắc của các công trình trông hơi phức tạp, nhưng chúng thể hiện một cách hoàn hảo sức mạnh của hoàng gia.
Bên cạnh các tác phẩm điêu khắc kiến trúc cung điện, còn có nhiều tác phẩm điêu khắc kiến trúc dân gian với đề tài đa dạng và kỹ xảo điêu luyện. Tác phẩm điêu khắc kiến trúc phổ biến là điêu khắc gạch và điêu khắc gỗ. Một số tác phẩm điêu khắc bị ảnh hưởng bởi ảnh của các loại chim, hoa và các hình vẽ cảnh chim và hoa và các câu chuyện.
3. Nhật Bản:
Bất kể những trường hợp dù là dung dị hay hoa mỹ, các kiến trúc sư, nhà thầu và thợ thủ công Nhật rất chú ý đến tiểu tiết. Cả khi ấn tượng diện của tòa nhà là giản dị, nhất là khi được ngắm từ xa, nhưng khi quan sát cận cảnh người ta thường phát hiện tòa nhà có nhiều chi tiết làm gia tăng sự thú vị. Việc quan tâm tới tiểu tiết tác động cả lên nét đặc trưng của kỹ thuật và thiết kế.
Có một khía cạnh khác của nền văn hóa Nhật Bản không được biết đến rõ ràng cảm tính về màu sắc hoa mỹ và tính phức tạp của hình dạng trái với truyền thống với tính đơn giản và không cân đối. Điều này được minh họa ở các điện thờ, chùa chiền và lăng tẩm theo phong cách Trung Hoa ở Nikko. Các dinh thự như thế có đặc điểm là sự tương phản mạnh giữa các màu đỏ sơn và các bức tường trát vữa trắng, những đồ trang trí trau chuốt, những đường cong, cân xứng khuôn mẫu kiểu dáng dựa theo tự nhiên. Cả truyền thống dung dị và hoa mỹ được ưa chuộng tùy thời và nơi chốn, tùy theo cơ hội.
a. Lâu đài Osaka:
Theo tài liệu ghi chép, lâu đài Osaka được xây dựng trên khu nền đất cũ của ngôi đền Ishiyama Honganji vào năm 1853. Tại thời điểm đó, lâu đài Osaka
Chính là lâu đài lớn nhất ở xứ sở hoa anh đào. Lãnh chúa Toyotomi Hideyoshi đã có ý định biến tòa lâu đài này thành trung tâm mới dưới thời cai trị của ông. Tuy nhiên, vài năm sau khi Lãnh chúa Toyotomi Hideyoshi mất thì lâu đài đã bị quân đội Tokugawa phá hủy. Đến năm 1620 mới được Lãnh chúa Tokugawa Hidetada xây dựng lại nhưng tòa tháp chính đã bị sét đánh cháy vào năm 1665. Ngoài ra thì lâu đài Osaka cũng được tu sửa lại nhiều lần. Hiện nay, bên trong lâu đài rất hiện đại và có cả hệ thống thang máy giúp cho việc đi lại giữa các tầng dễ dàng hơn. Nhưng du khách sẽ thấy kiến trúc bên ngoài vẫn giữ nguyên phong cách truyền thống với hình ảnh mái vòm cong vút có dát vàng lấp lánh.
Những kiến trúc trên đã được chính phủ Nhật Bản công nhận là Di sản Quốc gia, rất có giá trị để lưu giữ và bảo tồn. Vì thế, du khách sẽ có thêm nhiều trải nghiệm thú vị khi ghé thăm tòa lâu đài nổi tiếng này.
- Điêu khắc: Thuật khắc gỗ trên phần dưới cửa cũng như trước tác kim loại giúp tồn tạo cây cột kế bên. Cả hai phần cổng của đền Higashi Honganji ở Tây Kinh minh họa sự quan tâm đến chi tiết là tiêu biểu của nhiều tòa nhà truyền thống.
b. Đền Nikko Toshogu:
Kiến trúc điện thờ vô cùng sắc sảo, mang vẻ đẹp tự nhiên nhưng cũng ẩn chứa nét kiến trúc độc đáo. Theo các nhà sử học ước tính thì để hoàn tất tất cả những kiến trúc bên trong đền thờ thì tốn khoảng 40 tỷ yên, một con số không hề nhỏ. Những tòa nhà ở Nikko ban đầu đơn giản nhưng vài năm sau, cháu nội của Ieyasu sửa sáng lại đẹp hơn nhằm phô trương sự giàu sang và thế lực của chế độ mạc phủ Tokugawa. Tương phản giữa sự câu thúc thẩm mỹ và sự lộng lẫy của các lăng tẩm ở Nikko thể hiện sự trang nghiêm, chúng đều là những chiến công của nền văn hóa Nhật với sự coi trọng, cả sự kiềm chế và sự khoáng đạt, tùy theo từng hoàn cảnh.
Quần thể của ngôi đền được trang trí xa hoa với 12 tòa nhà xây dựng trong một khu rừng vô cùng đẹp! Với nhiều tác phẩm nghệ thuật chạm khắc làm bằng gỗ, bên cạnh sử dụng một lượng rất lớn các lá vàng để trang trí cho những tòa nhà này! Nhiều du khách đến Nikko đều nhận thấy yếu tố thần đạo Nhật Bản và Phật giáo của ngôi đền! Giữa các tòa nhà có 5 kiến trúc nổi bật ở khu cổng chính.
Để vào bên trong đền, du khách sẽ đi qua cổng chính, đi qua khu nhà kho được xây dựng rất vô trường với các bức tượng gỗ được chạm khắc tỉ mỉ với nhiều màu sắc! Trong đó có bức tượng nổi tiếng là bức chạm khắc 3 con khỉ: “Không nghe thấy, không nói và không nhìn thấy”. Tác phẩm này được biết đến là một trong các quốc bảo của Nhật Bản.
c. Nitenmon Gate:
Điêu khắc: Cổng Nitenmon (Nitenmon Gate) là một cổng có 3 gian tương tự như Cổng Nioumon, song phần mái có quy mô lớn hơn, gồm hai tầng: Phần dưới như hàng hiên với lan can xung quanh, các tầng con sơn đỡ hàng hiện phủ sơn màu đen với riềm mạ vàng; Phần trên là mái với các tầng con sơn đỡ mái được sơn màu sắc rực rỡ. Chính giữa phần mái cổng được uốn cong tạo thành điểm nhấn trên mái. Cổng được chạm khắc phức tạp và lòe loẹt.
- Cấu tạo:
+ Uchikoshidaruki: Là cấu kiện có thân gác lên xà phụ của hiên, đầu còn lại gối tựa lên kẻ nối, có tác dụng nâng đỡ trọng lượng của mái hiên cho hai phần kẻ và cột.
+ Tabasami: Là cấu kiện có tính trang trí che lấp khoảng trống giữa cột hiên và mái hiên.
+ Kouhaiketa: Là cấu kiện kết nối cột hiên với nhau đồng thời chịu tại cho bộ hiên phía bên ngoài giúp tăng tính chắc chắn cho công trình.
+ Ebikouryou: Bẩy hiên còn gọi là xả tôm vì có hình dạng giống như con tôm. Là liên kế chủ yếu giữa cột hiên và cột chính. Hình dạng cong của bẫy hiên được tạo ra do sự chênh lệch chiều cao của hai cây cột. Do đó bẫy hiên được điêu khắc tinh xảo, đẹp mắt.
+ Ebikouryou: Bẩy hiên còn gọi là xả tôm vì có hình dạng giống như con tôm. Là liên kế chủ yếu giữa cột hiên và cột chính. Hình dạng cong của bẫy hiên được tạo ra do sự chênh lệch chiều cao của hai cây cột. Do đó bẫy hiên được điêu khắc tinh xảo, đẹp mắt.
Chủ nghĩa tối giản và kiến trúc Nhật là hai yếu tố gần như luôn đi đôi với nhau. Phong cách này có nguồn gốc từ phương Tây sau Thế chiến thứ hai, trong bối cảnh ấy, sự ra đời của nó đối lập với một thế giới nơi mà các loại hình nghệ thuật đã trở nên lỗi thời và quá nặng tính hàn lâm.
Người Nhật đã áp dụng rất tốt trang trí vào kiến trúc, kết hợp chúng vô cùng hài hòa. Tùy từng thời kỳ mà các kiểu hay thể loại trang trí sẽ khác nhau nhằm thể hiện phong cách kiến trúc của thời kỳ đó, cũng như ảnh hưởng văn hóa, tôn giáo vào lúc đó tới kiến trúc. Bản thân trang trí hoàn toàn có thể được tán dương. Nói về quan hệ của chúng với những hình dạng kiến trúc đằng sau, chúng có thể làm cho kiến trúc rõ ràng hơn, hoặc mờ nhạt hơn, nó có thể bóp nghẹt hoặc mang lại sức sống cho kiến trúc. Tuy nhiên, trang trí tuyệt đời không đồng nghĩa với kiến trúc.
4. Đông Nam Á:
Kiến túc cổ các quốc gia Đông Nam Á chịu tác động mạnh mẽ từ văn hóa kiến trúc và điêu khắc từ Ấn Độ, đều là những quốc gia tôn sùng Phật giáo và Hindu giáo nên những công trình kiến trúc cổ trong khu vực đều xoay quanh các đền thờ thần và đền thờ Phật, những công trình mang xu hướng tâm linh với những nét chạm khắc, điêu khắc nổi bật về cuộc đời đức Phật hay những vị thần trong vũ trụ Meru theo truyền thuyết Hindu giáo.
a. Kiến trúc Trung Java TK VII-X:
Điêu khắc Java mặc dù ảnh hưởng lớn từ văn hóa Ấn Độ nhưng được tiết chế đơn giản chi tiết và ít cầu kỳ. Đề tài khai thác cốt truyện theo triết lý của Ấn Độ nhưng sử dụng các hình ảnh của Indonesia (hình người và con vật thần thoại, đặc biệt là hình Makara – Kala – thủy quái sông Hằng) – Tôn thần Siva làm thần tối cao.
Phù điêu ở đây rất quyến rũ nhưng trang nghiêm, lặng lẽ, mang dấu ấn của phong cách cổ điển Ấn Độ, các phù điêu trên tường nối tiếp nhau tạo thành một bức tranh chạm khắc nổi hoành tráng, sinh động về cuộc đời Đức Phật từ lúc sinh thành cho đến khi đắc đạo. Borobudur có khoảng 504 tượng Phật, 1460 phù điêu miêu tả con người, sự kiện và 1210 phù điêu trang trí.
Các vách tường 6 tầng của Borobudur đều được phủ kín phù điêu, chạm trổ rất công phu, mô tả về cuộc đời của Đức Phật, các bồ tát và các anh hùng đã giác ngộ Phật pháp, cũng như các giáo lý của đạo Phật.
Các mảng điêu khắc trên vách đá, được định danh là điêu khắc Prambanan. Nổi bật và lớn nhất trong điêu khắc ở Prambanan là gương mặt Kala trên các cửa chính của các ngôi đền, thể hiện đầy đủ các chi tiết về sự dữ tợn, chở che, bảo vệ. Các phần nóc mái, hành lang của Prambanan được trang trí bằng những tháp nhỏ được khắc rãnh tượng trưng cho các viên kim cương.
b. Kiến trúc Đông Java TK XI – XIII:
Thủ đô quốc gia chuyển sang Đông Java từ thế kỷ 10 – Không xây những quần thể rộng lớn mà chỉ là những công trình đơn lẻ và phát huy cách thức xây dựng cổ truyền địa phương. Các đền tôn giáo có sự thay đổi, tách biệt thờ Phật, thờ thần Hindu. Phần thân thu hẹp lại – Phần nền trở thành nơi đặt tượng thờ. Phần tiếp xúc giữa thân và mái đua mạnh ra. Sử dụng đất sét, gạch đúc lớn, nội thất công trình nhỏ hẹp, tạo sắc thái riêng cho kiến trúc.
Kiến trúc đền – núi là những công trình đơn gắn vào sườn núi tạo nên quần thể kiến trúc mang nhiều giá trị văn hóa.
b. Campuchia:
* Điêu khắc: Các điêu khắc hình mặt người cho thấy trình độ tạo tác và điêu khắc người Campuchia xưa rất cao. Các đường nét biểu cảm được thể hiện tinh tế và vô cùng chính xác, các bức điêu khắc hình tượng thần Shiva, người dân Campuchia. Một nét phản ánh con người chứ không 100% sao chép gương mặt của ai.
Các điêu khắc xuất hiện ở 3 tầng mở ra và 4 hướng Quần thể cao 42m, trung tâm đến có 16 ngọn tháp và 36 tháp ở các góc và giao điểm hành lang.
Angkor Thom
Là công trình kiến trúc huyền bí và nổi tiếng bậc nhất Đông Nam Á, do vua Jayaarman VII cho xây dựng. Nghệ thuật kiến trúc độc đáo về mặt biểu tượng, vẫn giữ những thành tố cơ bản của kiến trúc đền núi, nền kim tự tháp, điện thờ trung tâm và hành lang nối liền, xuất hiện nhiều yếu tố mới phật giáo.
Đền Angkor Thom luôn là một trong những điểm đến hấp dẫn đối với du khách. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên điều đó chính là những câu chuyện thần thoại xoay quanh ngôi đền. Những câu chuyện này hâu hết được truyền tai nhau hoặc ghi chép trong những di tích cổ. Sự kỳ bí và tính xác thực của nó không ai biết được. Chính điều kỳ bí này đã khiến ngôi đền càng trở nên bí ẩn và hấp dẫn đối với nhiều người. Và du khách khi đến tham quan đều mong muốn tìm hiểu lịch sử đền Angkor Thom. Truyền thuyết kể lại rằng thuở xa xưa, vị thần tối thượng Idra có quan hệ với một người phụ nữ dưới trần gian. Người này đã hạ sinh một hoàng tử được đặt tên là Preah Két Mêalêa (nghĩa là ánh sáng thiên thần). Sau này, vị hoàng tử đã lên kế vị ngôi vua ở Indra Prast. Thần tối thượng Indra vì thấy hoàng tử khôi ngô, tuấn tú nên đã đem về trời nuôi dưỡng.
Tại đây, các thiên thần không hài lòng mà còn phản đối. Họ cho rằng con của người trần gian không thể chung sống với thiên thần trên thượng giới, nên tìm mọi cách đòi Indra trả lại hoàng tử xuống hạ giới làm người trần. Mặc dù rất thương con nhưng vị thần tối thượng không thể làm trái quy luật của thượng giới và mếch lòng các thiên thần ở đây. Indra liền nảy ra ý định sai một vị kiến trúc sư vĩ đại của các vị thần là Preah Pisnuka xây dựng ở hạ giới một thành phố tráng lệ để hoàng tử sinh sống, làm người nguôi ngoai nỗi nhớ của thần trên thượng giới. Thành phố được xây dựng lên chính là hiện thân của Angkor Thom ngày nay. Chính những câu chuyện thần thoại như vậy đã khiến lịch sử Kinh thành Angkor Thom trở nên đặc biệt hơn đối với khách du lịch.
Angkor Wat
Angkor Wat là một quần thể đền đài tại Campuchia và là di tích tôn giáo lớn nhất thế giới. Angkor Wat là sự kết hợp của hai nét cơ bản của kiến trúc Khmer: kiến trúc đền – núi cùng với những dãy hành lang dài và nhỏ hẹp. Kiến trúc này tượng trưng cho Núi Meru, quê hương của các vị thần trong truyền thuyết Ấn Độ giáo. Ngôi đền được ngưỡng mộ bởi vẻ hùng vĩ và hài hòa của kiến trúc, sự phong phú của nghệ thuật điêu khắc và số lượng lớn các vị thần được trang hoàng trên những bức tường đá.
Kiến trúc nổi bật tại Angkor Wat là phù điêu Vũ nữ Apsara. Người ta ước tính có hơn 3000 bức phù điêu Apsara được khắc trên các bức tường trên khắp các ngôi đền. Điều đặc biệt là mỗi bức phù điêu Aspara đều có điểm đặc biệt riêng với các kiểu tóc và điệu bộ khác nhau.
b. Aspara:
Là nghệ thuật múa cung đình của người Campuchia, điệu múa đã được Unessco công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể của thế giới. Vũ điệu đắm say này có nguồn gốc từ các nhân vật Aspara trong truyền thuyết Hindu giáo là những nàng tiên đã được coi là tài sản, linh hồn quốc gia của Campuchia. Qua điệu múa Aspara, người dân Campuchia muốn nói lên ước mong về một cuộc sống thanh bình, thịnh vượng, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, thần thánh và công đức của người xưa.
Hơn 3000 bức phù điêu Vũ nữ Aspara được ghi nhận trên quần thể đền Angkor nhưng lại chẳng có nàng vũ nữ nào giống nàng vũ nữ nào. Từ dáng múa, từng đường cong, từng nét mặt của những bức phù điêu đều có nét riêng biệt như thể đây là những nàng vũ nữ chân thực mang trên mình những dấu ấn cá nhân.
- Sưu tầm -
>>> Trang trí mỹ thuật đình chùa Hà Nội
>>> Yếu tố tạo hình kiến trúc (Phần 1)
>>> Nét, mảng và màu sắc trong nghệ thuật trang trí