Phong cách đường nét và đồ họa (Phần 1)
1. Đường nét (đồ họa, tạo hình) và hình họa:
* Tranh xúc giác và tranh thị giác:
Để khái quát sự khác biệt giữa nghệ thuật Durer và nghệ thuật Rembrandt, ta gọi Durer là nhà đồ họa và Rembrandt là họa sỹ. Nói như thế, ta đã vượt qua giới hạn đánh giá cá nhân và tạo nên sự khác biệt cho một thời đại. Hội họa phương Tây mang tính đồ họa ở thế kỷ mười sáu, và phát triển tính hình họa vào thế kỷ mười bảy. Ngay cả trong trường hợp chỉ có Rembrandt thì sự điều chỉnh này vẫn mang tính quyết định, vì cách thức xem tranh mới đã xuất hiện. Cho nên, muốn làm rõ mối quan hệ với thế giới hội họa, trước hết, ta phải nắm bắt được những cách thưởng thức hội họa khác nhau này. Phương thức hình họa ra đời sau không thể được nhận thức đầy đủ nếu không có phương thức trước đó, và nó cũng không phải là một phương thức ưu việt tuyệt đối. Phong cách đường nét phát triển những giá trị mà phương pháp hình họa không sở hữu và cũng không muốn sở hữu. Chúng là hai quan niệm về thế giới, khác nhau về khẩu vị và sự hứng thú, cho nên mỗi phong cách có khả năng riêng để tạo ra bức tranh hoàn hảo về sự vật hữu hình.
Bức tranh Tê giác của Dürer (1515)
Lễ Mân Côi (1506)
Khung cảnh cây cầu đá (1638)
Tuần tra đêm (1642)
Tuy rằng trong môi trường của phong cách đường nét, đường viền chỉ là một, vì đường viền không thể tách khỏi bố cục mà nó hàm chứa, nên ta sử dụng định nghĩa thông dụng được đề cập từ đầu - phong cách đường nét xem tranh qua những đường viền, phương pháp hình họa qua những mảng hình. Vì vậy, thưởng thức tranh đường nét, nghĩa là, nơi ta tìm thấy ý nghĩa và cái đẹp của sự vật trước hết là đường viền, nên ánh mắt hướng về những ranh giới - chỗ tạo ra cảm xúc thẩm mỹ là dọc theo mép gờ. Nhưng khi xem những mảng hình thì sự chú ý bị kéo khỏi mép gờ, nơi mà đường viền với tư cách là sự hướng dẫn đã trở nên xa lạ. Yếu tố quyết định cho ấn tượng, trước tiên, chính là sự vật được nhìn qua mảng hình. Những mảng hình đó được thể hiện bằng màu sắc hay chỉ bằng ánh sáng và bóng tối đều không quan trọng.
Sự hiện diện của ánh sáng và bóng mờ không phải là nhân tố quyết định đối với tính chất hình họa của một bức tranh. Nghệ thuật đường nét muốn thể hiện hình ảnh và không gian cũng cần ánh sáng và bóng mờ để đạt được ấn tương tạo hình. Nhưng đường nét cố định được xem như ranh giới thì có giá trị ưu việt hơn hoặc tương đương (với ánh sáng và bóng mờ). Leonardo được xem là bậc thầy của những bức tranh sử dụng sự tương phản sáng, tối, đặc biệt là trong bức tranh Bữa Tiệc Cuối. Bức tranh đó, lần đầu tiên trong nghệ thuật cận đại, ánh sáng và bóng mờ được sử dụng như một thành tố cấu thành phạm vi rộng.Vậy thì ánh sáng và bóng mờ đó là gì khi không có sự hướng dẫn rõ ràng, chắc chắn của đường viền nữa? Mọi thứ lại phụ thuộc vào tính khuynh hướng, hoặc được nhấn mạnh hoặc bị giảm thiểu đối với các đường gờ; liệu chúng phải được đọc là đường nét hay không ? Trong trường hợp này, đường vẽ thể hiện là một nét dài di chuyển đều đặn quanh bố cục, mà theo đó người xem tranh có thể tự tin thưởng thức bức tranh đường nét, nhưng trong trường hợp khác thì ánh sáng và bóng mờ lại ngự trị bức tranh, vì không có dường ranh giới nào rõ nét nên không thể minh định. Thỉnh thoảng đây đó thoáng hiện vài nét: nó không còn tồn tại như sự hướng dẫn chắc chắn cho toàn thể bố cục. Vì thế, điều làm rõ sự khác biệt giữa Rembrandt và Durer không phải là ánh sáng và bóng mờ được sử dụng nhiều hay ít, mà một ngưới chú trọng đến sự xuất hiện của những mảng màu, còn người kia thì không quá nhấn mạnh vào vai trò của các mép gờ.
Khi xuất hiện sự suy giảm của đường nét với tư cách ranh giới chính là lúc khả năng hình họa được xác lập. Ở thời điểm đó, dường như tất cả sự vật được một chuyển động bí ẩn làm chúng sinh động hẳn lên. Nếu đường viền được nhấn mạnh để xác lập sự biểu đạt đường nét thì trong hình họa sự không xác định về sự vật lại là sự biểu đạt chủ yếu: bố cục bắt đầu thể hiện vai trò của mình, ánh sáng và bóng mờ trở thành yếu tố độc lập, chúng tìm kiếm, ảnh hưởng lẫn nhau chiều sâu lẫn chiều rộng; tổng thể hòa quyện qua dáng vẽ để làm toát lên sự chuyển động không ngừng. Dù đó là chuyển động rõ ràng, mạnh mẽ hay chỉ là rung động nhẹ nhàng, đều tạo cho người xem về một cảm nhận khó nắm bắt.
Ta có thể hiểu sâu hơn hai phong cách khi cho rằng tầm nhìn đường nét phân biệt rạch ròi giữa các phần bố cục, còn hình họa thì ánh mắt ngắm nhìn sự chuyển động lướt qua toàn bộ sự vật. Ở trường hợp này thì đường nét rõ ràng đều đặn tách bạch nhau, còn trường hợp kia những đường ranh giới không nhấn mạnh, chúng nghiêng về kết hợp. Có nhiều yếu tố cùng tạo ra ấn tượng cho chuyển động tổng thể, nhưng sự giải phóng ánh sáng và bóng mờ để chúng kết hợp với nhau trong tác động qua lại là nét cơ bản của ấn tượng hình họa. Điều đó có nghĩa không phải chỉ có riêng bố cục mà cả toàn bộ bức tranh, vì chỉ ở trong tổng thể thì dòng chảy hòa quyện huyền ảo của bố cục, ánh sáng và bóng mờ mới phát huy tác dụng. Rõ ràng, ở đây cái phi vật chất và vô hình cũng có ý nghĩa như những đối tương cụ thể.
Khi Durer và Cranach đặt hình khỏa thân, như một đối tượng sáng trên một nền tối, các yếu tố được phân biệt rất rõ ràng: nền là nền, nhân vật là nhân vật, nàng Venus hay Eve hiện lên trước mắt, tạo ra một hiệu ứng của một bóng xiên trắng trên nền tối tương phản. Ngược lại, phụ nữ khỏa thân trong tranh Rembrandt nổi lên trên một nền tối, nên ánh sáng từ thân thể nhân vật như toát ra từ bóng tối của không gian bức tranh: mọi vật trong tranh như cùng một chất liệu. Phân biệt giữa các đối tượng ở trường hợp này trở nên không cần thiết. Bố cục rõ ràng, sự thống nhất giữa ánh sáng và bóng tối từ người mẫu đã đạt được cuộc sống riêng, và không có áp lực buộc đối tượng phải hiện hữu theo định kiến, nên nhân vật và không gian, hữu thể và vô thể, đều có thể thống nhất với nhau trong ấn tượng của chuyển động âm sắc.
Nhưng tất nhiên để có nhận xét đầu tiên lợi thế cho “họa sỹ hình họa”, giải phóng ánh sáng và bóng mờ ra khỏi chức năng chỉ để nhằm định hình bố cục. Một ấn tượng hình họa dễ dàng được nhận thấy là khi ánh sáng sử dụng không còn làm chức năng thứ yếu là phân biệt các đối tượng mà là phủ qua chúng: có nghĩa, bóng mờ không dính chặt với bố cục, mà nằm ngay trong sự đối chọi giữa sự tách bạch của đối tượng với chiếu sáng, nên mắt nhìn càng có xu hướng tự nhiên hướng tới vai trò của âm sắc và bố cục trong tranh. Sự chiếu sáng hình họa trong nội thất nhà thờ chẳng hạn không phải là thứ ánh sáng làm cho sự khác biệt giữa cột và tường càng rõ càng tốt mà ngược lại là thứ ánh sáng trượt trên bố cục và che khuất một phần bố cục. Cũng như vậy bóng mờ xiên nếu cần phải diễn đạt sự nối kết này thì ý niệm, thiếu tính biểu cảm là thích hợp nhất: một bóng mờ hình họa không bao giờ trùng khớp với bố cục đối tượng. Khi mà nó nói rõ về đối tượng là lúc nó tự cô lập và kiểm soát sự kết nối của những mảng hình trong tranh.
Nhưng với tất cả những điều nói trên, thì chúng ta vẫn chưa thể đi đến một quyết định. Chúng ta phải quay trở lại sự khác nhau chính yếu giữa cách biểu đạt đồ họa và hình họa như cách hiểu nguyên thủy về chúng - biểu đạt đồ họa đại diện sự vật như nó vốn dĩ và hình họa thể hiện sự vật dường như. Định nghĩa này hơi thô. Và đối với người am hiểu triết học thì vấn đề vì sao mọi vật lại không có dáng vẽ riêng của nó? Nói về sự vật như chúng vốn dĩ là theo nghĩa nào? Tuy nhiên trong nghệ thuật thì những khái niệm này có quyền tồn tại. Có một phong cách chủ yếu là khách quan về cách nhìn, hướng tới nhận thức sự vật và thể hiện chúng qua những mối quan hệ vững chắc, hữu hình, và ngược lại, có một phong cách lại chủ quan trong thái độ, đặt sự biểu đạt lên trên hình ảnh, mà ở đó hình dáng thị giác của sự vật trông rất thực trong mắt nhìn, nhưng chỉ lưu lại rất ít những nét giống như trong nhận thức của chúng ta về bố cục thực của sự vật.
Phong cách đường nét là phong cách của cảm nhận tạo hình về sự khác biệt. Những đường ranh giới đều đặn, rõ ràng, vững chắc về đối tượng tạo cho người xem một cảm giác an toàn, như thể dùng ngón tay lần theo và cả bóng mờ của người mẫu cũng chạy theo bố cục sít sao đến độ cảm nhận xúc giác bị thách thức. Biểu đạt và sự vật có thể nói là giống nhau. Ngược lại, phong cách hình họa, ít nhiều tự giải phóng mình ra khỏi sự vật như nó vốn có. Vì thế, không còn có đường viền liên tục và bề mặt tạo hình bị xóa bỏ. Đường vẽ và hình mẫu không còn trùng với bố cục tạo hình theo nghĩa hình học nữa, cho nên chúng chỉ tạo ra cảm giác giống với sự vật qua thị giác.
Trong tự nhiên, nơi là một đường cong, thì chúng ta thấy ở đây chỉ còn là một góc, và thay cho loại ánh sáng hiện ra tăng dần đều và giảm dần đều thì ở đây ánh sáng và bóng mờ hiện ra chập chờn, ngắt quảng, những mảng không đều nhau. Chỉ có dáng vẽ của hiện thực được nắm bắt mọi thứ hoàn toàn khác với những gì mà nghệ thuật đường nét sáng tạo ra qua cách nhìn được quy định bởi tính tạo hình, và cũng vì lý do này mà phong cách hình họa sử dụng ký hiệu có thể không còn mối liên hệ trực tiếp với hình thức thực tế. Bố cục tranh không định hình, nên không thể chuyển các hình ảnh mang tính hữu hình của đối tượng thực tế vào các dường thẳng, đường cong tương ứng.
Cách thức theo sát hình ảnh nhân vật qua một đưởng vẽ rõ ràng, đều đặn, mang yếu tố nắm bắt sự vật có tính vật chất. Quá trình thao tác của mắt khi xem tranh cũng giống như quá trình thao tác của bàn tay khi cảm nhận thân thể nhân vật và hình ảnh người mẫu cũng lặp lại hiện thực qua sự tăng, giảm đều đặn về độ sáng tối nên đã tạo ra sự hấp dẫn mang tính xúc giác. Ngược lại, biểu đạt hình họa loại bỏ sự giống nhau này. Nó bắt nguồn từ thị giác và chỉ hấp dẫn với mắt nhìn, và điều này cũng giống như một đứa trẻ từ bỏ việc nắm lấy đồ vật để “tìm hiểu” nó, nhân lọai cũng thế, không còn thửởng thức tranh qua giá trị xúc giác nữa. Một nền nghệ thuật phát triển hơn đã học được cách chỉ nắm bắt dáng vẽ của sự vật mà thôi.
Với điều này, toàn bộ ý niệm về tranh đã thay đổi. Bức tranh xúc giác đã chuyển đổi thành bức tranh thị giác một cuộc cách mạng có tính quyết định nhất mà lịch sử nghệ thuật từng biết đến.
Dĩ nhiên, không nhất thiết nghĩ ngay tới mô thức cuối cùng, mô thức hội họa ấn tượng hiện đại, khi mà ta muốn hình thành ý tưởng về sự thay đổi từ phong cách đường nét tới phong cách hình họa. Bức tranh về một đường phố tấp nập, do họa sỹ Monet vẽ, trong tranh ông, ta chẳng thấy điều gì trùng với hình ảnh mà chúng ta từng biết trong đời thực; một bức tranh xa lạ đến kinh ngạc của ký hiệu, chắc chắn không thể tìm thấy ở thời đại của họa sỹ Rembrandt. Nhưng nguyên tắc của chủ nghĩa ấn tượng thì nằm ở đó. Ai cũng rõ trường hợp của chiếc bánh xe đang quay. Ấn tượng ấy là hình ảnh những chiếc nan hoa biến mất, và ở vị trí nầy xuất hiện những vòng đồng tâm không xác dịnh, và hình tròn hình học của bánh xe cũng không còn . Không chỉ Velasquez, mà ngay cả một nghệ sỹ kín đáo như họa sỹ Nicolas Maes cũng vẽ ấn tượng này. Lúc bánh xe bắt đầu chuyển động là khi nó trở nên không xác định. Một thắng lợi của cái dường như đối với cái vốn dĩ.
Suy cho cùng, đó chỉ là một trường hợp đặc thù. Sự biểu đạt mới phải bao gồm cả trạng thái tĩnh cũng như trạng thái động. Khi mà một quả cầu đứng yên không còn được biểu đạt bằng bố cục tròn hình học, mà bằng những nét đứt đoạn, và nơi mà bề mặt của một hình khối bị giảm thiểu thành từng khoảng tối, sáng rời rạc, thay cho một nét vẽ đồng bộ với độ tăng, giảm ánh sáng thì ta có thể cảm nhận được đó chính là lúc, chúng ta đứng trên mảnh đất của chủ nghĩa ấn tượng.
Thật sự là phong cách hình họa không hình thể hóa sự vật như bản thân chúng mà biểu đạt thế giới qua mắt nhìn, như thể chúng hiện ra trước mặt. Điều đó cũng hàm ý rằng nhiều bộ phận của một bức tranh được nhìn thấy từ cùng một khoảng cách. Tưởng là chuyện đương nhiên, nhưng sự thật chưa hẳn như thế. Khoảng cách cần thiết để ta có cái nhìn tách bạch chỉ là tương đối: những sự vật khác nhau thì mắt nhìn cần có khoảng cách khác nhau. Trong cùng một tổ hợp bố cục thì các bộ phận sẽ cùng được thể hiện tới mắt nhìn. Chẳng hạn, chúng ta thấy rất rõ ràng cái đầu nhân vật, nhưng với mẫu hoa văn của cà - vạt nằm phía dưới cổ thì ta cần phải xích lại gần hơn, chí ít cũng phải điều chỉnh mắt nhìn để bố cục ấy trở nên tách bạch, rõ ràng. Phong cách đường nét là sự biểu đạt cho cái hiện hữu, không khó khăn để tạo ra sự tách bạch cho đối tượng. Rất tự nhiên đối với sự vật , mỗi thứ đều nằm trong bố cục riêng của nó, nên cứ theo đó mà chuyện đổi thành hình tượng rõ ràng, tách bạch. Tuy nhiên yêu cầu về một nhận thức thị giác thống nhất không tồn tại đối với phong cách nghệ thuật này trong sự phát triễn thuần nhất của nó. Holbein, trong tranh nhân vật của mình, ông theo mẫu thiết kế tác phẩm của người thợ đan thêu và thợ kim hoàn, nên ông đưa mọi chi tiết nhỏ nhất vào tranh. Fran Hals, thì ngược lại, ông vẽ cái nơ đeo cổ chỉ là một vệt trắng mờ. Ông không muốn tạo cho người xem một cảm nhận nào khác ngoài hình ảnh khái quát về tổng thể. Nhưng, tất nhiên, cái vệt trắng mờ ấy phải trông như thể tất cả chi tiết thực sự nằm trong đó, còn cái không rõ ràng chỉ là khoảnh khắc thoáng qua do khoảng cách tạo ra mà thôi.
“Lais of Corinth”, 1526, 34,6 x 26,8 cm (Ảnh: epochtimes)
Có nhiều cách để đo lường những gì ta có thể nhìn thấy như là một sự thống nhất. Tuy chúng ta quen mô tả, ở mức độ cao như chủ nghĩa ấn tượng chẳng hạn, nhưng thực ra chẳng thể hiện điều gì hoàn toàn mới lạ. Rất khó để xác định được thời điểm “hình họa” chấm dứt hoàn toàn và phong cách “ấn tượng” bắt đầu. Vì mọi thứ đều trong quá trình chuyển đổi. Cũng rất khó để nói rằng đâu là biểu hiện cuối cùng của chủ nghĩa ấn tượng, được xem là sự biểu đạt hoàn chỉnh kinh điển. Về phía phong cách đường nét, thì sự việc dễ dàng hơn. Những gì mà Holbein trình diễn, trong thực tế, là hiện thân của nghệ thuật cái hiện hữu khó ai vượt qua, ở đó mọi yếu tố có tính giống như đều bị loại bỏ.
Cái nhìn tổng thể, tất nhiên phải từ một khoảng cách nhất định. Nhưng khoảng cách thì lại có một mặt phẳng tăng dần bề mặt của vật thể. Nơi mà cảm nhận xúc giác biến mất, chỉ còn những âm sắc của ánh sáng và bóng tối nằm bên nhau được cảm nhận thì đó cũng chính là nơi đã mở đường cho biểu đạt hình họa. Điều đó không có nghĩa là ấn tượng về khối lượng và không gian bị thiếu hụt, mà trái lại, ảo giác về mối liên hệ trở nên mạnh mẽ hơn, nhưng ảo giác đó chỉ đạt được một cách chính xác qua một thực tế, tính tạo hình không còn hiện hữu trong tranh mà chỉ còn dáng vẽ của tổng thể ở đó. Đấy cũng chính là điều kiện để phân biệt nghệ thuật chạm axit của Rembrandt với nghệ thuật chạm khắc của Durer. Trong tác phẩm của Durer ta thấy sự nổ lực đạt cho được giá trị xúc giác, phương cách đồ họa, khi có thể, thì nét chạm phải cố gắng theo sát bố cục người mẫu. Còn Rembrandt thì khác, với khuynh hướng kéo bức họa ra khỏi khu vực có tính xúc giác, nên khi vẽ hình, thì lượt bỏ mọi thứ dựa trên trãi nghiệm tức thời của các cơ quan xúc giác, đến mức độ mà ở đó chỉ còn lại một bố cục tròn, nhưng lại được vẽ như mặt phẳng thực bởi một lớp đường thẳng, nhưng nhìn thấy chúng không hề phẳng trong ấn tượng chung của tổng thể. Phong cách này không phải hoàn thiện ngay từ đầu. Cả trong tranh Rembrandt cũng thấy có sự tiến triển rõ rệt. Ở giai đoạn đầu, bức tranh Diana bathing vẫn mang phong cách tạo hình (tương đối) với những nét cong theo sát bố cục riêng rẽ: còn những hình phụ nữ khỏa thân về sau, thì ngược lại, đường cong còn lại rất ít, chủ yếu là đường phẳng dẹt. Giai đoạn đầu, nhân vật đứng riêng ra, ở giai đoạn sau thì ngược lại, nhân vật được đan cài trong tổng thể của âm sắc (tonal) tạo ra không gian bức tranh.
Tổng hợp: Sự đối lập rõ rệt giữa phong cách đường nét với phong cách hình họa phù hợp với sự khác biệt trong mối quan tâm của họ về thế giới. Với phong cách đường nét đó là cách nhìn hình tượng bất động, còn với hình họa đó là hình tượng luôn biến đổi: đường nét thì bố cục ổn định có thể đo đếm, xác định, còn hình họa thì bố cục là chuyển động, mang tính chức năng; ở đường nét thì sự vật nằm ngay trong bản thân nó, còn hình họa sự vật thể hiện qua mối quan hệ.Và nếu như chúng ta nói rằng ở phong cách đường nét bàn tay có thể cảm nhận thế giới vật thể, đặc biệt những tác phẩm mang tính tạo hình, còn ở phong cách hình họa thì mắt nhìn lại hết sức nhạy cảm dối với các kết cấu đa dạng, và điều này chẳng có gì mâu thuẩn, cảm nhận thị giác dường như được cảm nhận xúc giác nuôi dưỡng nghĩa là có một cảm nhận xúc giác khác có thể thưởng thức cảm xúc bề mặt, một lớp vỏ khác của sự vật. Nhưng cảm nhận này lại đi ra ngoài vật thể cố định, tiến vào lãnh địa của thế giới phi vật chất. Chỉ có phong cách hình họa mới biết được cái đẹp của cái vô thể. Từ khác biệt về khuynh hướng của sự hứng thú đối với thế giới mà mỗi thời lại cho ra đời một cái đẹp riêng.
Phong cách hình họa, trước hết, diễn tả thế giới như mắt ta nhìn thấy trong thực tế, vì lý do này mà nó được gọi là chủ nghĩa ảo giác. Nhưng chúng ta không nghĩ rằng giai đoạn muộn hơn này có thể tự cho mình là thước đo đối với tự nhiên và rằng phong cách đường nét chỉ là tham chiếu tạm thời về hình ảnh thực. Đúng ra là phong cách đường nét đã hoàn thiện, cho nên, nó cũng chẳng cần phải nâng cao tầm vóc của mình theo hướng ảo giác. Đối với Durer thì, hội họa, theo ông, là một “ảo giác quang học”, và Raphael và Velasquez đều phải được tôn vinh là hai họa sỹ bậc thầy: đơn giản là những bức tranh tuyệt tác của hai ông được xây dựng trên cơ sở của hai nền tảng nghệ thuật khác nhau .
* Những đặc tính lịch sử và dân tộc:
Trong lịch sử nghệ thuật, có một sự kiện rất đáng quan tâm, đó là nghệ thuật trước thời Phục Hưng chủ yếu là nghệ thuật đồ họa, và tiếp theo đó với sự xuất hiện của ánh sáng và bóng mờ, rồi tiến tới chiếm thế chủ đạo, để cuối cùng chuyển hóa nghệ thuật theo xu hướng phong cách hình họa. Cho nên, không có gì khác thường nếu chúng ta đưa phong cách đường nét trước. Nhưng muốn đánh giá về những tác phẩm có tính kinh điển của đường nét, thì không thể đi tìm ở thế kỷ mười lăm, mà lại ở thế kỷ mười sáu. Leonardo có nhiều đặc tính đường nét hơn Botticelli, và Hal Holbein the Younger thì đường nét hơn cả bố của ông. Phong cách đường nét không mở ra một hướng phát triển mới, mà đó là một quá trình tự giải phóng, thoát dần khỏi sự pha tạp trong phong cách. Sự xuất hiện của ánh sáng và bóng mờ như một nhân tố quan trọng vào thế kỷ mười sáu không làm ảnh hưởng tính thống trị của đường nét. Tất nhiên, những tác phẩm nghệ thuật sơ khai ( trước Phục Hưng) cũng là tác phẩm đồ họa, nhưng đó chỉ là những tác phẩm biết sử dụng đường nét chứ không phải tận dụng khả năng của đường nét. Bị gắn vào cách nhìn đường nét, và nhận thấy triển vọng biểu đạt của đường nét một cách có ý thức là hai vấn đề hòan toàn khác nhau.Sự tự do hoàn toàn của đường nét được xác lập chính vào lúc yếu tố đối lập, ánh sáng và bóng mờ đã trưởng thành. Điều này không phải là vì sự có mặt đường viền quyết định nên tính chất đường nét của một phong cách như đã nhận xét mà là ái lực từ đó buộc ánh mắt phải hướng theo. Đường viền của tác phẩm kinh điển tạo ra một quyền lực tuyệt đối:đó là, đường viền kể cho ta về những sự kiện và qua đó nghệ thuật hội họa thể hiện. Nó thu nạp vào mình đầy đủ đường nét biểu đạt với tất cả cái đẹp trong đó. Ở những bức tranh của thế kỷ mười sáu, ta thấy rõ tính chất quyết định của đường nét. Qua bài ca đường nét mà sự thật của bố cục hiện ra. Đó là thành quả vĩ đại của thế kỷ mười sáu đã kiên trì chinh phục thế giới hình ảnh bằng đường nét. So sánh với tác phẩm kinh điển thì chủ nghĩa đường nét trước thời kỳ Phục Hưng Sơ khai, chỉ là đường nét nửa vời.
Theo nghĩa này thì chúng ta nên xem Durer như là khởi điểm . Giống như khi đánh giá về hình họa, không ai phản đối nếu ta gắn nó với Rembrandt, dẫu rằng lịch sử cần sự xuất hiện của ông ấy sớm hơn nhiều thực vậy ông đã trãi qua những giai đoạn khúc khuỷu tiệm cận với nghệ thuật đường nét kinh điển. Grunewald được xem là hình họa nếu so sánh với Durer, trong số những họa sỹ Florentines thì Andrea được thừa nhận là “hình họa”, trường phái Venetian, là một trường phái hình họa khi so sánh với Florentine, và Correggio được xem là một nhà hình họa.
Đến đây chúng ta lại thấy sự bất lực của ngôn từ. Có lẽ chúng ta cần cả nghìn lời để diễn đạt giai đoạn chuyển tiếp. Đó là một câu hỏi xuyên suốt về sự đánh giá có tính tương đối. So sánh với một phong cách, thì phong cách muộn hơn được gọi là hình họa. Grunewald dĩ nhiên là hình họa hơn Durer, nhưng đặt bên cạnh Rembrandt thì ông ấy lại mang dấu ấn của những họa sỹ thế kỷ mười sáu, nghĩa là, con người của bóng mờ. Nếu xem Andrea là một họa sỹ hình họa tài năng, thì chúng ta thừa nhận chính ông đã giảm nhẹ vai trò đường viền so với các họa sỹ khác và rằng có những điểm sáng mờ đâu đó trên bề mặt tác phẩm, nơi mà ông đã giấu bên trong đó cảm xúc chủ yếu về tạo hình của mình. Ngay cả với trương phái Venetian, nếu chúng ta thật sự áp dụng những tiêu chí, thì thật ra họ cũng không thể tách ra khỏi chủ nghĩa đường nét. Bức tranh Venus nằm nghiêng là một tác phẩm còn mang tính đường nét như tác phẩm Sistine Madonna.
Giữa những họa sỹ đồng hương thì Correggio thoát ra khỏi quan niệm đương thời xa nhất. Ở ông, ta có thể thấy sự nổ lực chinh phục đường viền như một yếu tố thống trị. Vẫn sử dụng nét vẽ những đường chạy dài trong hầu hết các tác phẩm, nhưng ông đã làm cho lộ trình của chúng trở nên phức tạp khiến người xem khó nắm bắt, và đưa chúng nhập vào lãnh địa bóng mờ và ánh sáng, để làm xuất hiện ở đó những đóm sáng lung linh với sức mạnh như thể chúng đang cố thâm nhập vào nhau và tự giải thoát ra khỏi đường vẽ.
Nghệ thuật Baroque Ý có thể gắn với Correggio. Nhưng điều quan trọng hơn cho hội họa Châu Âu, là có một giai đoạn phát triển mà Titian và Tintoretto là những người trãi qua trọn vẹn giai đoạn đó. Ở đây những bước đi có tính quyết định để dẫn tới sự biểu đạt về hình dáng và người đại diện xứng đáng cho trường phái này là El Greco .
Người phụ nữ với chiếc khăn trùm (La Donna Velata)1515 – Raphael
“Người đổi tiền và vợ của anh ta,” tranh của Quentin Massys, 1514
Chúng tôi không trình bày lịch sử của phong cách hình họa, mà đi tìm một quan niệm chung nhất. Vẫn cho rằng sự chuyển động để tiến tới đích là một quá trình không thuần nhất, và rằng những tiến bộ mang tính chất cá nhân đôi lúc lại là sự thụt lùi. Phải mất một thời gian khá dài trước khi thành quả cá nhân trở thành tài sản của cộng đồng, đâu đó, dường như cũng xuất hiện sự quay lại. Tuy nhiên, nhìn chung, vấn đề về một quá trình đồng nhất vẫn tồn tại cho đến cuối thế kỷ mười tám,và nó đã gặt hái thành quả cuối cùng là những bức tranh của một Guardi và một Goya. Sau đó là một giai đoạn ngưng nghỉ hơi dài. Một chương của lịch sử nghệ thuật phương Tây đã đóng lại và mở ra một chương mới qua việc công nhận sự ngự trị của đường nét.
Con đường của lịch sử nghệ thuật, nhìn từ một khoảng cách nào đó, thì không hề bằng phẳng cả ở phía nam và bắc. Cả hai đều có chủ nghĩa đường nét cổ điển vào đầu thế kỷ mười sáu và cả hai chuyển qua giai đoạn hình họa ở thế kỷ mười bảy. Có thể thấy sự giống nhau về phong cách của họ hàng thân thiết giữa Durer và Raphael, giữa Massys và Giorgione, giữa Holbein và Michelangelo và mặt khác, tuy có sự khác biệt nhưng Rembrandt, Raphael và Bernini lại có chung một trung tâm phong cách. Nếu nhìn nhận kỹ hơn thì sự đối lập rõ ràng của cảm nhận dân tộc được thể hiện ngay từ đầu. Nước Ý, ở thế kỷ mười lăm đã mang cảm nhận rõ rệt về đường nét, cho nên, đến thế kỷ mười sáu, thực sự, là một trường phái thượng thặng của thuần đường nét,và kết thúc với đường nét, baroque Ý cũng chưa bao giờ đi xa như ở phương bắc. Đối với cảm nhận tạo hình của các họa sỹ Ý, thì đường nét ít nhiều là yếu tố mà bố cục nghệ thuật sử dụng để tự thể hiện mình.
Bức tranh Đức Mẹ và Hài đồng với thánh John và thánh Cather
Nhưng không thể nhận định như thế đối với quê hương của Durer, vì đã công nhận sức mạnh riêng của nền nghệ thuật cổ Đức chính là nghệ thuật đồ họa rõ ràng. Nhưng, trong khi nền đồ họa cổ điển Đức chật vật và chậm chạp thoát khỏi ảnh hưởng của nghệ thuật cận đại Gothic, hình họa hữu hình, thì cũng chính là thời điểm nó tìm kiếm một hình mẫu qua nghệ thuật đường nét Ý. Lập tức, sức sáng tạo Đức được phát huy, tạo ra sự bện kết giữa đường nét với đường nét; thay cho nét vẽ đơn giản rõ ràng, ở đó đã xuất hiện những cuộn, những mạng đường nét. Ánh sáng và bóng mờ thống nhất với nhau trong cuộc sống hình họa, và bố cục riêng rẽ bị chìm vào những lớp sóng cuộn của chuyển động tổng thể.
- Theo Tuấn Bằng dịch -
>>> Sử dụng đường nét trong vẽ truyện tranh (Phần 1)
>>> Đồ họa tạo hình
>>> Nghệ thuật và Đồ họa Trúc chỉ