Điêu khắc
Điêu khắc là một trong những loại hình nghệ thuật phức tạp và thú vị nhất. Nó bao gồm đủ loại từ các tác phẩm chạm khắc đầy sức mạnh của Michelangelo cho đến các mặt nạ trang trí các lễ hội tôn giáo châu phi, và từ những bức tượng đá trang trí các thánh đường đến các vật di động kim loại đong đưa duyên dáng trong gió. Nó có thể được định nghĩa như là nghệ thuật của chạm trổ, nhào nặn, tạo hình, hoặc lắp ghép các vật liệu vào trong các hình dạng hay hình thể 3 chiều.
Hình 16 Các hình thể độc đáo của Continuity in Space của Umberto Boccioni, 1913. chát liệu đồng. 43 7’8 x 34 7/8 x 15 3/4 inches.
Một mẩu điêu khắc có thể nhỏ đủ để đứng trên một cái bàn, hoặc lớn cỡ như tượng nữ thần tự do, nhưng cho dù lớn hay nhỏ, tác phẩm điêu khắc hướng đến chất lượng tượng đài – tính chất hoành tráng và lộng lẩy trong một tác phẩm. Điêu khắc ở kích thước lớn thường được gọi là tượng đài do bởi kích thước của nó. Tuy nhiên, ngay cả mẫu điêu khắc nhỏ nhất cũng có một sức mạnh toát lên những ý tưởng to lớn và sang trọng.
Nghệ thuật điêu khắc có lẽ đã phát triễn trong hiệp hội với các nghi thức tín ngưỡng và huyền bí. Điêu khắc nổi lên như một loại hình nghệ thuật cách đây vào khoảng 20.000 năm. Trong suốt thời kỳ đồ đá cũ, người tiền sử đã khắc các tượng nhỏ từ những vật liệu như xương hoặc ngà voi. Họ có lẽ đã dùng các bản khắc này trong các lễ an táng hoặc được mùa. Chúng được tạo hình tương tự như các đối tượng bằng đất sét. Cho dù từ điêu khắc có nguồn gốc từ cắt và ngụ ý về một kỹ thuật khắc chạm, tạo hình đối tượng cũng được gọi là điêu khắc.
Những nhà điêu khắc sử dụng nhiều yếu tố được tìm thấy trong hội hoạ. Những yếu tố này bao gồm không gian, mảng khối, thể tích, đường nét, chuyển động, ánh sáng và bóng tối, kết cấu, và màu sắc. Nhưng một bức hoạ chỉ có 2 chiều – cao và ngang – vì nó được tạo ra trên một bề mặt phẳng. Người họa sĩ chỉ có thể cho ảo giác về chiều sâu. Ngược lại, các thể loại điêu khắc có 3 chiều. Chúng có chiều sâu, hoặc độ săn chắc, cũng như chiều cao và rộng vì nhà điêu khắc tạo hình khối trong không gian. Thuật ngữ mảng khối và thể tích được sử dụng để mô tả cách mà các khối điêu khắc chiếm phần không gian. Mảng khối mô tả số lượng của tầm vóc, độ đặc chắc, hoặc sức nặng của hình khối trong không gian. Thể tích chỉ ra lượng không gian bị một tác phẩm điêu khắc chiếm chỗ. Đường nét hoặc các gờ cạnh của tác phẩm điêu khắc, chứa đựng hoặc xác định hình dạng của khối điêu khắc.
Chuyển động là một yếu tố quan trọng trong điêu khắc. Một vài tượng điêu khắc có vẻ hoàn toàn nghỉ ngơi và thừa nhận có 1 ít hoặc là không chuyển động. Ví dụ như, bức tượng đồng ngừơi đánh xe ngựa của Delphi có một đường chính đơn giản và ít chi tiết. Nó xuất hiện mạnh mẽ, rắn chắc, và tĩnh lặng. Nó đứng một cách vững chắc trên một cái bệ, trong sự cân đối hoàn toàn, Thể loại điêu khắc này gọi là ở trạng thái tĩnh.
Tác phẩm điêu khắc cho một ấn tượng về sự thay đổi. di chuyển, và năng lượng được gọi là chuyển động. Các nhà điêu khắc có thể tạo ra ảo giác của sự chuyển động theo nhiều cách. Trong “Các hình thể đồng nhất của tính liên tục trong không gian”, điêu khắc gia người Ý Umberto Boccioni tạo nên những nhịp điệu trong bản thân bức tượng thông qua sự lặp đi lặp lại của các hình dạng bị uốn cong. Hình ảnh có vẻ như chính bản thân nó bị đổ nhào thông qua phần không gian trong nhiều trạng thái nối tiếp của sự chuyển động liên tục. Antoine Coysevox, một điêu khắc gia người Pháp, đã thể hiện một hình ảnh trong một hành động mạnh mẽ trong bức tượng Mercury của ông ta. Khi chúng ta ngắm nhìn một hình ảnh như thế, con mắt chúng ta di chuyển theo những đường nét cơ thể và chân tay. Những đường nét này dẫn dắt theo nhiều hướng, tạo nên cảm giác về một sự chuyển động.
Hình 17 Cuộc chiến của các vị thần và người khổng lồ, phần chi tiết từ phù điêu phía bắc của kho bạc Siphnians ở Delphi, Hy lạp, khoảng 525 TCN. Cẩm thạch, cao 26 inches
Một số tác phẩm điêu khắc thì chuyển động thật sự. Những tác phẩm này được gọi là điêu khắc động học. Bản điêu khắc đầu tiên và cơ bản nhất là những vật di động được phát minh bởi một điêu khắc gia hiện đại người Mỹ Alexander Calder. Như trong Red Petals, các thành phần khác nhau của hầu hêt các vật di động của Calder được làm từ kim loại tấm mỏng. Một vài trong số chúng yêu cầu cá đang bơi hay các lá cây gió cuốn trên cây. Các hình dạng kim loại được liên kết bằng những cái que và những sợi dây thép để định hình một chuổi từng đôi cân bằng mà được treo lơ lững từ 1 điểm đơn. Chúng xoay tròn với nhau trong gió nhẹ sáng rực.
Một họa sĩ định ra hình khối bằng cách tạo ra độ sáng tối Sau khi tô bóng này hoàn tất, nó không thể thay đổi. Một nhà điêu khắc tạo ra một đối tượng 3 chiều thật sự mà phải tuỳ thuộc vào nguồn sáng tự nhiên có thể thay đổi được hoặc nguồn sáng nhân tạo. Do vậy mà nhà điêu khắc phải có 1 khái niệm về các điều kiện nguồn sáng lý tưởng cho một tác phẩm cụ thể. Trong trường hợp một tác phẩm điêu khắc được đặc hàng, người nghệ sĩ có thể muốn nghiên cứu vị trí mà tác phẩm thực sự sẽ được đặt.
Hình 18 Thần sao thuỷ, tác phẩm điêu khắc của Antoine Coysevox ở Pháp, 1700-1702. Cẩm Thạch, cao khoảng 10 feet.
Do vai trò tự nhiên của sáng và bóng tối, nhà điêu khắc cũng phải cân nhắc cấu trúc bề mặt của các hình khối. Nhà điêu khắc phải quyết định giữ hay không bề mặt thô ráp, hoặc sẽ tạo cho nó một độ trơn láng, bề mặt được đánh bóng đến mức nào. Một bề mặt thô ráp, như là cái được thể hiện dấu tay hay dấu công cụ của nhà điêu khắc. bắt giữ ánh sáng và có thể cho tác phẩm điêu khắc một cảm giác của sức mạnh và quyền lực. Một bề mặt được đánh bóng nhẵn nhụi, trơn láng có thể khiến tác phẩm có vẻ thiếu cá tính. So sánh Orpheus bằng đồng của nhà điêu khắc người Pháp Auguste Rodin với tượng thép không gỉ Cubi XIX của điêu khắc gia người Mỹ David Smith.
Nhiều tác phẩm điêu khắc được để nguyên màu chất liệu của nó, bất kể nó bằng đồng, bằng đá cẩm thạch, hay bằng gỗ. Nhiều điêu khắc gia và nhà tài trợ thích vẻ đẹp tự nhiên của những chất liệu như thế. Tuy nhiên, có một truyền thống dài về điêu khắc màu. Để làm các tác phẩm sống động hơn, các nhà điêu khắc thời Ai Cập cổ đại, Hy Lạp cổ đại, và những nền văn hoá buổi sớm khác đã sơn màu tự nhiên môi, da, mắt, và tóc cho chủ thể của họ. Thật không may là, màu sắc bị phai mờ từ các nền văn hoá còn sót lại từ thời Ai Cập và Hy Lạp cổ đại. Nhiều nền văn hoá người da đỏ bắc mỹ và châu phi tập hợp cường độ cảm xúc từ màu sắc. Những ví dụ bao gồm ngai vàng hoàng tộc từ Cameroon và mặt nạ biến đổi từ bờ biển tây bắc của Bắc Mỹ.
Ngày nay, nhiều nghệ sĩ sử dụng chất liệu tổng hợp đủ màu hoặc hoàn thành các tác phẩm của họ bằng màu sắc. Một đương cử là “Người đàn bà với những chiếc vali” của nghệ sĩ Mỹ Duane Hanson, Tác phẩm được làm từ sợi thuỷ tinh và polyester được kết hợp với các phụ kiện đồ thật như là hành lý và vải vóc.
Màu sắc tạo ra nhiều hiệu ứng sặc sỡ. Nó có thể làm cho chất liệu nặng có vẻ nhẹ hơn, tạo nên tâm trạng hạnh phút hay u buồn, hoặc làm cho 1 tác phẩm điêu khắc giống với 1 bức hoạ được tạo ra trong không gian 3 chiều. Những hình thể phức tạp trở nên dễ hiểu hơn. Một điêu khắc gia cũng có thể khắc phục được những điều kiện ánh sáng khó chịu nào đó.
>>> Sự phát triển về tranh gốm, kiến trúc và điêu khắc thời Hy Lạp cổ đại
>>> Bề mặt lõm trong điêu khắc và kiến trúc