Các ống màu
Vào năm 1841, họa sĩ vẽ chân dung người Mỹ là John G. Rand đã phát minh ra phương pháp để đóng gói sơn dầu trong các ống kẽm dẻo, đã được pha trộn sẵn và chỉ việc nặn màu trực tiếp lên bảng pha. Các ống màu dầu này giúp cho các họa sĩ có khả năng mang theo một số lượng lớn các màu sắc khác nhau để vẽ ở ngoài trời hoặc bất kỳ nơi nào mà họ muốn vẽ.
Ngay từ trước phát minh của Rand, việc sử dụng sơn dầu cũng đã có những thay đổi đáng kể từ khi loại màu này lần đầu tiên được sử dụng phổ biến ở Bắc Âu vào thế kỷ XV. Hầu hết các họa sĩ đều không còn tự tạo ra màu vẽ bằng cách nghiền các loại khoáng vật mà thay vào đó họ mua bột màu trực tiếp từ các nhà cung cấp chuyên nghiệp. Các quá trình pha trộn hóa học cũng góp phần đáng kể tạo nên hàng loạt các màu sắc khác nhau. Nguyên tố cadimi được khám phá vào năm 1817 đã tạo nên những hợp chất mang lại màu vàng và đỏ rực rỡ.
Các họa sĩ như Albrecht Dürer đã từng vẽ tranh ngoài trời từ nửa đầu thế kỷ XIX, tạo nên những tác phẩm dựa trên những cảnh trong tưởng tượng. Đối với các họa sĩ vẽ tranh phong cảnh trường phái Lãng mạn, màu nước là loại màu vẽ hoàn hảo dùng cho việc vẽ ngoại cảnh, hay còn gọi là en plein air. Mong muốn được vẽ trực tiếp từ cảnh vật tự nhiên, thay vì sử dụng các bức ký họa màu nước vẽ tại chỗ làm tư liệu để sau đó vẽ lại các bức tranh sơn dầu trong xưởng vẽ, đã được khơi dậy bởi ham thích đối với chủ đề tranh phong cảnh và bởi áp lực của trường phái Hiện thực cho rằng nhiệm vụ của họa sĩ là phải thể hiện được diện mạo thực tế của mọi vật. Sử dụng màu dầu ngoài thực địa sẽ không thể nào dễ dàng như sử dụng màu nước, nhưng ít nhất màu dầu đóng thành ống cũng giúp hiện thực hóa được công việc này. Việc đóng gói sơn dầu thành ống đã được các thương gia cung cấp họa phẩm nhanh chóng nắm bắt, họ đã phát triển rất đa dạng các bộ dụng cụ tiện dụng có thể mang đi, chẳng hạn như những tấm khung vải bố đã được căng sẵn và quét sơn lót cùng với giá vẽ dạng xếp có thể đặt trước vật mẫu tương tự như chân máy ảnh mà các nhiếp ảnh gia sử dụng. Các họa sĩ giờ đây có thể thực hiện các bức tranh vẽ ngoại cảnh bằng màu dầu trên những khung vải bố với mục đích triển lãm công cộng hoặc để bán (vì các bản vẽ ký họa màu nước thường không được sử dụng cho mục đích này).
Việc vẽ tranh theo trường phái Ấn tượng phụ thuộc vào các ống màu vẽ, bởi phong cách hội họa của trường phái này chủ yếu tập trung vào các hiệu ứng ánh sáng xảy ra nhanh chóng ở ngoài trời trong điều kiện khí hậu miền Bắc nước Pháp thay đổi liên tục. Giống như hình ảnh những người nông dân đang làm việc trên cánh đồng trong các bức họa của Jean Francois Millet và Jules Bastien-Lepage, hình ảnh các họa sĩ đang vẽ ngoại cảnh và bộ đồ nghề di động của họ cũng đã trở thành đối tượng chính cho những bức tranh phong cảnh.
Các ông màu dầu có tính đặc quánh do đó phải sử dụng những loại cọ vẽ bằng lông cứng, có thể tạo nên những nét vẽ rõ ràng dứt khoát trên bề mặt vải bố. Kỹ thuật của trường phái Ấn tượng dựa trên những nét chấm màu nhỏ và đậm. Khi màu sắc được vẽ nhanh và ngẫu nhiên theo cách này thay vì vẽ nhiều lớp màu mỏng chồng lên nhau, các nét vẽ là dấu vết lưu lại những khoảnh khắc đã qua đi và là bản ghi chép phản ứng của họa sĩ đối với khoảnh khắc đó – hai đặc tính tạo nên tiếng vang đặc biệt trong thế kỷ XX. Mặc dù các loại sơn acrylic trở thành loại màu vẽ được ưa chuộng của hội họa trừu tượng thời hậu chiến, bởi chúng kết hợp được độ lỏng của màu nước với cường độ màu sắc của màu dầu, nhưng các họa sĩ vẫn tiếp tục thử nghiệm các tác phẩm của mình với các ống màu sơn dầu.
>>> Mô hình màu sắc từ thế kỷ XVII