Họa phẩm “Trên cánh đồng buổi sớm mùa thu”
của Vanky Ng. (Phần 1)
Hình 01. VanKy Ng. Trên cánh đồng buổi sớm mùa thu.
Sơn mài / vóc ván ép.
Kích thước: 90cm x 60cm x 04 tấm. Chữ ký đáy góc phải.
Năm vẽ: vào khoảng sau năm 1975
Hình 01a. Cận cảnh hai tấm bên trái.
Hình 01b. Cận cảnh phần giữa. Chủ thể chính.
Hai thân thụ mộc và chủ thể phụ.
Khóm tre / Nhịp tim của tác phẩm. Con người.
Hình 01c. Cận cảnh hai tấm bên phải. Màu được phân bổ
nhiều lớp chồng lấp lên nhau, khi mài cho ra hiệu ứng
chuyển sắc rất mượt mà cực kỳ sinh động.
Đây là một tác phẩm vẽ phong cảnh có tầm nhìn ngang rộng (panorama). Một không gian theo chiều của sự bình ổn thơ mộng, mang sắc thái trầm lắng của buổi bình minh còn tranh tối tranh sáng gợi lên cảm giác yên lành khi nhìn vào. Một loại hình về thu cảnh, mùa của mộng mơ và thi ca rất được ưa chuộng ở Việt Nam từ bao đời cho đến nay chưa phần giảm sút. Chuyện cũng có nguyên nhân sâu xa của nó, bởi do tính quí trọng những đồ vật có hàm chứa ý nghĩa tốt lành bày trí trong nhà. Một lý do nữa cũng không kém phần quan trọng đó là những lúc cần sự thư giãn, ngồi trước một hình ảnh trầm lắng nhẹ nhàng, vui tươi sung túc vẫn là điều thú vị hơn cả.
Bản thân tác phẩm "Trên cánh đồng buổi sớm mùa thu" của họa sĩ VanKy Ng. có vóc dáng thuộc loại khá lớn. Kích thước: 240cm theo chiều ngang và 90cm theo chiều cao. Muốn thưởng thức được trọn vẹn phải cần một khoảng cách ít nhất cũng phải gấp đôi bề ngang bức tranh để cho tầm mắt đủ sức quán thụ.
Để hiểu được sâu rộng hơn ta cần đi vào từng chi tiết của mỗi phần trong tác phẩm chiêm nghiệm những gì mà họa sĩ VanKy Ng. đã dày công gửi gắm xem nó như thế nào!
I - CHỦ ĐỀ:
Tác giả mô tả một khung cảnh đồng quê vào buổi sáng mùa thu. Một mùa mà bầu trời không nhiều mây, có những cơn mưa nhẹ không ào ạt, nắng dịu không chói chang như mùa hè nên khí trời trở nên mát mẻ dễ chịu, vạn vật bắt đầu chuẩn bị cho một chu kỳ mới khi vừa trải qua một thời gian khắc nghiệt…Cảnh thu rất rõ nét khi tác giả đặt trước mặt tác phẩm một gò đất cỏ mọc xanh um, nổi bật hai thân cây đại thụ trơ thân cành của thời kỳ đang thay lá tràn đầy sức sống (biểu thị qua hình ảnh chi-cành chỉ thiên). Nếu đưa tầm nhìn tản rộng về hai bên cả một vùng thôn dã rực sáng dưới nắng ban mai vàng óng lan tỏa từ phía chân trời tít tắp, đây đó những mái nhà tranh khoe mình rải rác bên lũy tre làng cạnh những dải ruộng bát ngát, thấp thoáng mạch đường bờ đất e ấp dưới mảng lúa vàng rạp gió. Dải đất êm đềm tĩnh lặng trở nên ấm áp sinh động tràn đầy sức sống khi có bóng dáng những đứa trẻ mục đồng đang vui đùa dưới bầu trời thênh thang yên bình ngập tràn nắng sớm. Hình ảnh con người nơi đây cũng chính là hơi thở, là nhịp đập con tim của tác phẩm. Nếu thiếu đi những hình ảnh tích cực này thì tác phẩm này dù có đẹp, có dễ thương đến mấy cũng mất đi nhiều ý nghĩa và cuối cùng cũng chỉ là một mảng tĩnh nằm ngang mà thôi.
II - KHÔNG GIAN TRONG TÁC PHẨM
Một không gian mở rộng căng ngang rất thoáng được phân định làm hai phần rất rõ nét. Khoảng trống vô hạn bên trên, mặt ngang hữu hạn phần dưới cũng là hai thể nhẹ và nặng.
* Bầu trời khoáng đãng, nhẹ tênh... không gợn mây, trong veo cao vút vô cùng tận. Dưới chân bãng lãng ráng mây sớm ửng rực ánh dương vàng rạng rỡ, báo hiệu một ngày mới đang dần đến. Khoảng không nhẹ-rỗng huyền bí tiềm ẩn một cái gì đó thiêng liêng luôn hiện diện trên tầm cao bao trùm cả vạn vật mà tác giả cho ta được thấy qua sự diễn cảm bằng nghệ thuật sơn mài rất sinh động.
* Phần nặng bao giờ cũng có khuynh hướng lắng xuống. Cái lắng xuống ở trong tác phẩm này chứa đựng biết bao sự mỹ miều của vạn vật được họa sĩ VanKy Ng. dùng ngôn ngữ hội họa tràn đầy mỹ cảm để đưa chúng ta về nơi chốn mà ai cũng cảm thấy rung động, yếu mềm cả con tim khi nhìn thấy nó. Cái đọng lại ở đây nó mang dáng vẻ của một vùng đất giồng(1), cuộc đất trù phú với cánh đồng lúa vàng bạt ngàn, đan xen từng lũy tre làng xanh ngát, vườn cây ăn trái vây quanh những mái ấm gia đình tọa lạc trên mảnh cồn, gò không nhiều các loại thụ mộc lâu năm. Xa xa bầu trời mênh mông nhả những ráng mây sớm xuống quần tụ thành một vệt dài nằm xuyên suốt chắn ngang tầm mắt, phản chiếu ánh dương ban mai sáng rực cả một phương, hắt xuống vạn vật, đọng lại dưới chân rặng cây cuối trời thành một vệt mảnh mai lóe lên độ sáng không thua gì ráng mây sớm. Nơi đó có thể là dòng sông mà cũng có thể là một cánh đồng bưng ngập nước phản quang tạo ảo giác do bị gom hẹp lại bởi tầm viễn cận. Một hình ảnh thân thương thường gặp ở vùng châu thổ sông Cửu Long làm cho ta thèm khát, mong có dịp đứng trước nó phóng tầm nhìn quán thu cánh đồng ngút mắt bãng lãng những làn sương mai, lung linh e ấp từng rặng tre, bờ đất. Căng phổi tận hưởng bầu không khí trong lành còn dịu mát hơi sương, ngước mặt đón nhận những tia nắng mai ấm áp của buổi bình minh đang dần đến…
Chiều sâu phối cảnh của tác phẩm càng biểu lộ mạnh mẽ hơn, khi mà tác giả lôi chủ thể là hai thân thụ mộc và khóm tre thật rối rắm, thật to lớn cho va dập trực tiếp, choán cả tầm nhìn cận cảnh, để rồi nhả phóng, đẩy ra hai bên với không gian mênh mông khoáng đãng sâu ngút ngàn tít tắp. Một sự nao nao nhẹ nhõm, dễ chịu ập đến khi tầm nhìn vừa thoát khỏi sự câu thúc rối rắm, nặng nề để đi vào chiều không gian trống trải nhẹ nhàng. Có cái gì đó bay bổng trong tâm hồn khi đứng trước tác phẩm này với khoảng không gian tuyệt vời của họa sĩ VanKy Ng.
III - BỐ CỤC:
Trong bố cục tác phẩm, ta cần chú tâm đến hai phần: Bố cục ý tưởng và bố cục hình thể.
1. Bố cục ý tưởng
Mọi việc tạo dựng của con người đều khởi nguyên từ sự có tư duy cho nên chuyện hình thành được vóc dáng vật chất nào đó bắt buộc phải có sự xếp đặt hợp lý – tình, kinh qua năng lực sáng tạo cùng sự hòa nhịp giữa kỹ năng và trí – tri. Tư tưởng dẫn dắt sự việc.
a/ - "Con số ba": là con số lạ kỳ đầy huyền bí và lý tính. Nó hiện diện trong mọi lĩnh vực, đời sống tinh thần, vật chất và xã hội con người. Nói đến số 3 là nói đến một mô thức luôn có ba thành phần hiện hữu trong nó. Một con số rất đặc biệt ẩn chứa bao quát những nền tảng triết lý, luận lý, tâm lý, đạo đức, siêu hình, vũ trụ quan, nhân sinh quan, thần học..v..v... với sự phát triển đa diện như thế khó mà suy diễn cho rốt ráo và đầy đủ. Trong tác phẩm này tác giả VanKy Ng. có chạm đến "con số ba". Khi ông đưa vào tác phẩm của mình ý niệm về " Thiên - Địa - Nhân " và "Tam Đa". Đây là hai mảng chứa đựng triết lý nhân sinh mang tính chúc phúc và tín ngưỡng đã giản hóa và trở thành biểu tượng rất phổ cập, rất gần gũi ăn sâu vào tư tưởng, tâm lý của mọi tầng lớp trong xã hội, trong đời sống thường nhật của con người.
* Thiên-Địa-Nhân: Nói về ý niệm này, ta cũng phải hiểu là tác giả đã khai thác một điều đã tiềm tàng trong đời sống tinh thần, đời sống tâm linh của người phương Đông từ rất xa xưa vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay. Có ba nhịp gắn bó mật thiết với nhau không thể tách rời đó là: Trời – Đất – Con người. Một khái niệm ăn sâu vào tiềm thức mỗi cá nhân, nó trở thành một điều hiển nhiên bất biến trong xã hội không thể chối cãi. Cho nên dù không nói ra nhưng khi thể hiện, từ vô thức điều đó đôi lúc đã chi phối đến sự việc đang diễn tiến. Ý niệm Thiên-Địa-Nhân đã bộc lộ rất rõ trong tác phẩm của họa sĩ VanKy Ng. qua các hình ảnh thật gần gũi mộc mạc rất dễ đi vào lòng người, gợi lên bao điều kiến trải trong cuộc sống thường nhật, thấm đậm tình quê hương đất nước mà ai cũng có trong tâm hồn… không thể phai nhạt.
Hình 02. Sự giản lược tối đa hình thể. Vay mượn sự vật ngoại quan để chuyển tải tư tưởng rất chuẩn không rườm-rối. Các mảng giữa và hai bên đều có đủ Trời-Đất-Con người. Ý tưởng và bố cục cho thấy rõ là chủ đích của tác giả VanKy Ng.. Không phải do người viết áp đặt.
Để chuyển tải, tránh chuyện bị ngộ nhận dẫn đến hiểu sai lệch ý tưởng của mình, họa sĩ VanKy Ng. đã cho đơn giản sự vật trong tác phẩm đến mức tối đa, ông chỉ đưa vào những thứ cần yếu nhưng đủ sức truyền đạt ý tưởng muốn giải bày. Không nhồi nhét hình ảnh vào quá nhiều dễ dẫn đến sự rối loạn, phai loãng chủ đề, mất đi tính lý cần yếu chủ quan. Một ý niệm kiên định trong việc vay mượn sự vật ngoại quan để chuyển tải tư tưởng mang tính ẩn dụ là những mẫu hình đó phải thật phổ quát, rõ ràng không thể mơ hồ, bí hiểm. VanKy Ng. đã thực hiện điều này rất hiệu quả. Ta hãy nhìn vào những cảnh quan trong tác phẩm: Bầu trời - cánh đồng - nhóm trẻ chăn trâu. Tất cả những hình ảnh hiện thực này đã thừa sức chuyển tải về ý niệm Thiên - Địa - Nhân trước mọi người. Không chỉ ở phần tổng quan mà khi ta nhìn vào từng mảng riêng lẻ trong ba phần: Trái - Giữa - Phải. Tại đây ta vẫn thấy đầy đủ những tính chất "tam tài" này. Qua đó mới thấy sự tinh tế của tác giả khi vay mượn sự vật để chuyển tải ý niệm về Thiên - Địa - Nhân và cách dùng con người tạo sinh khí cho tác phẩm của ông rất lý thú. (xem hình 02).
* Tam Đa: Khái niệm Tam Đa: Đa phúc - Đa lộc - Đa thọ là ý niệm thể hiện lòng khao khát được sở hữu của con người Phương Đông. Tam Đa được hiểu với ý nghĩa chúc tụng, mong muốn, ước mơ, có địa vị cao trong xã hội, có cuộc sống sung túc, con đàn cháu đống, có sức khỏe hưởng tuổi thọ cao ..v..v.. Ý niệm này đã ăn sâu vào trong tâm khảm mọi người mọi nhà, dưới hai dạng thức: Cụ thể và ẩn dụ.
- Tính cụ thể: Hình vẽ, thư pháp, những bộ chữ hoặc tượng về ba ông. Trường thọ - Quan lộc - Đại phú gia. Những vật chất được thực hiện tùy nghi bằng đủ loại kỹ thuật cũng như chất liệu.
- Tính ẩn dụ: Loại hình này thì sự vật không rõ nét như tranh tượng mà là những vật thể có hình hài, dáng vóc của con số ba. Cây cảnh, đá tảng, mảng miếng, khối gỗ..v..v.. hoặc được biểu lộ bằng bất kỳ vật thể, chất liệu, trạng thái gì miễm sao nó có chứa đựng bóng dáng của "con số 3". Chúng tùy thuộc vào cảm tính cá nhân và được dùng làm vật trang trí, bày biện bất kỳ nơi nào trong nhà để mong lấy có sự may mắn. Một ước mơ trong cuộc sống mà mọi người khao khát và mong muốn có được.
Trong tác phẩm này họa sĩ VanKy Ng đã đưa ý niệm Tam Đa vào trong tranh cho mọi người thấy ngay từ khi mới thoạt nhìn vào, đó là phần bố cục hình thể tổng quát gồm ba mảng: Bên trái - Giữa - Bên phải. Mỗi mảng có chứa đựng rất nhiều vật thể, trong mỗi vật thể đều có mang nội dung, ý nghĩa riêng của nó. Phải chăng đó là cách thể hiện ý nghĩa của chữ "đa" trong cụm từ "Tam đa" ?
Một câu hỏi được đăt ra là: Tại sao VanKy Ng. không dùng ba tấm vóc cho đúng với ngữ nghĩa "Tam đa" mà lại dùng 04 tấm? Có hai điểm cần lưu ý ở khía cạnh này trong bộ tranh sơn mài 04 tấm của họa sĩ VanKy Ng:
+ Điểm thứ nhất. Nó nằm trong tính lý của người Phương Đông luôn coi con số 4 có hàm chứa nhiều ý niệm ẩn dụ tốt đẹp "Tứ quý". Nên nhớ rằng con số 04 cũng biểu thị cho "Tứ bình" hoặc "Tứ thời". Một khái niệm bất dịch của giới văn họa xưa nay khi muốn nói hay sử dụng để mô tả đến bốn mùa trong năm. Cứ cho rằng ta áp đặt sự lý giải là mùa thu nằm trong "Tứ thời" để giải thích cho chuyện vì sao tác giả lại dùng 04 mà không dùng 03 tấm vóc có lẽ cũng xuôi tai, cũng không lấy gì làm khiên cưỡng. Một ý khác. "Tam đa" đem lộng ghép trong "Tứ quý" chắc hẳn càng thêm phần tốt đẹp.
+ Điểm thứ hai. Sự lệ thuộc vào việc triển khai ý tưởng và sự bố cục đại thể ban đầu. Ở đây ta dựa vào hình ảnh thực tế trong tác phẩm. Nếu sử dụng 03 tấm. Không gian chiều ngang sẽ bị bó hẹp lại, chiều cao bị đẩy tăng lên, không đủ sức chuyển tải hệ thống cảnh vật căng ngang như dùng 04 tấm. Một khi khoảng rộng căng ngang thênh thang không có sẽ ảnh hưởng đến hình họa. Mọi thứ sẽ phải thu gọn lại, không chuyển tải hết được những tinh túy cảnh trí ảo giác cũng như ý tưởng chủ quan về chiều rộng không gian chất chứa sự vật. Điều này thấy rõ qua hình ảnh của chủ thể chính. Nó chiếm gần hết diện tích bề mặt hai tấm vóc, trên trên tổng số 04 tấm. Một diện tích khá lớn so với tổng thể. Nếu như đem toàn bộ chủ thể đặt vào diện tích của 03 tấm ta sẽ thấy nó bị bó hẹp như thế nào. Nếu thu nhỏ hình thể tổng quan lại cho phù hợp với diện tích bề mặt của 03 tấm thì khoảng trống chiều cao dư thừa sẽ giải quyết ra sao để vẫn giữ được chiều rộng mong muốn? Nói chung tác phẩm này được diễn giải theo chiều ngang (panorama) có chủ đích nhất định ngay từ ban đầu nên tác giả đã chủ động chọn và xếp đặt, dàn dựng sự vật rất kín kẽ. Tất cả đều phù hợp với chiều căng ngang, hạn chế về chiều cao và kết quả như ta đã thấy trong tác phẩm. Điều này cho thấy tác giả đã ý thức được việc mình phải làm sao, làm những gì nên đã chọn "bộ tứ" ngay từ khi bắt tay vào sáng tác. Và chỉ có diện tích rộng lớn của "bộ tứ" như thế này (Hình 02) mới đủ sức chứa đựng, mới đủ sức chuyển tải hết những ý tưởng sâu lắng, hình ảnh đầy tính ẩn dụ mà tác giả đã thai nghén, nuôi dưỡng trong tâm trí nay đem dàn trải thành bộ sơn mài hoành tráng của mình.(2)
Hình 02b. Khái niệm "Tam Đa" qua ba mảng tổng quan của tác phẩm: Phải - Giữa - Trái. Và khái niệm "Tam Đa" được lộng trong bốn tấm vóc. Số bốn này biểu thị cho "Tứ Quý" hay "Tứ thời" cũng là ý tưởng tốt đẹp đối với mọi người.
b/ - Khái niệm Âm-dương. Âm-dương là hai thái cực độc lập tồn tại song song trong thế giới vô thể và hữu thể. Có lộng ẩn một đơn vị thành tố cơ bản mang tính đối kháng lẫn nhau, luôn tương hành, hỗ trợ, thúc đẩy cùng nhau chuyển hóa tạo quân bình cho sự sống trong vũ trụ. Khác với sự tương phản là hai thành phần cùng xuất hiện trong trạng thái trái ngược đối kháng, riêng biệt thuần túy không mang tính lộng ghép, không hỗ tương cho nhau.(3)
Hình 03. Biểu tượng âm dương nói lên bản chất và mối quan hệ có lộng ẩn thành tố cơ bản lẫn vào nhau giữa hai thái cực âm và dương. ( Ảnh nguồn Wikipedia).
Hình 03b. Hình ảnh biểu trưng cho sự tương phản giữa hai màu đen và trắng khi đặt chúng cạnh nhau.
Hình ảnh của hai tam giác mang màu đen & trắng, cho thấy sự khác biệt triệt để. Thuần túy tương phản. Không lộng ghép, không hỗ trợ cho nhau.
Hình 03c. Khái niệm âm dương trong tác phẩm. Những dẫn chứng trên chỉ có tính khái quát tượng trưng...
Trong hội họa những tác phẩm vẽ phong cảnh là loại hình dùng nghệ thuật thường dùng để mô tả nhịp sinh hoạt, nếp sống của con người hay cảnh vật trong một khoảnh khắc nhất định nào đó mà tác giả bắt gặp hay hư cấu mà thành. Dù cho ở tình huống nào tính âm dương vẫn mang ý niệm đầy đủ về những diễn tiến hướng động có sự tương quan mật thiết với nhau chứ không phải là sự đối kháng tĩnh như tính chất của tương phản chủ yếu chỉ có khác biệt mà không xảy ra sự thúc bách để vận động. Vì thế, thay vì dùng cụm từ "tương phản" để định dạng những sự khác biệt không thuần tính đối kháng, người viết dùng cụm từ "âm dương" để chỉ danh những trạng thái dị biệt tích cực đó. Mục đích làm cho rõ ý nghĩa và phù hợp với hình tướng vật thể trong tác phẩm "Trên cánh đồng buổi sớm mùa thu" mà tác giả đã dày công bày tỏ.
Họa sĩ VanKy Ng đã khai thác ý niệm Âm-dương dưới dạng song song luôn tương tác giao hòa, hỗ trợ cho nhau. Có nghĩa là hai vật thể trong trạng thái dị biệt tích cực luôn được đặt để nằm bên nhau, để thể hiện rõ tính tương tác tương hành, phối hợp giao hòa lồng ghép bên nhau từng phần nhỏ, lan tỏa cùng khắp, cùng nhau liên kết thành mảng lớn cấu thành một đại thể. Tất cả các yếu tố cấu thành vật thể mang tính âm dương được ông thông qua bố cục, bút pháp, tạo hình và màu sắc của hội họa đem dàn trải rất nhiều trên bản diện tác phẩm nghệ thuật này. Nào là nơi chủ thể, nơi cảnh vật, không gian trong tranh, trong màu sắc và chất liệu kim loại. Ông triển khai tính âm dương qua những tố chất. Mạnh mẽ/ thô ráp/ nặng nề/ rối rắm. Đặt chúng bên cạnh sự mềm mại/ mảnh mai/ nhẹ nhàng/ đơn giản hoặc là những hình thể: Lớn-nhỏ; gần-xa; trên-dưới; trước-sau; sáng-tối; đậm-nhạt; rộng-hẹp; tĩnh-động...v..v...cho chúng hòa mình, hỗ tương cho nhau mang đến sự linh hoạt và sinh khí cho tác phẩm, chúng là cặp đôi song hành rất quan trọng không thể thiếu, không thể loại bỏ đi một trong hai mà được. Đại diện cho khái niệm này. Cụm cây thụ mộc và khóm tre chủ thể của tác phẩm. Cả hai cùng chung một không gian, cùng bắt rễ ở một môi trường sống để phát triển và tồn tại. Về hình thái. Hai cây thụ mộc biểu thị cho dương tính còn khóm tre biểu thị cho âm tính thông qua những dạng thức: Cứng cáp, mạnh mẽ/ mềm mại, dịu dàng; Lớn/nhỏ; Già nua/non trẻ; Trần trụi/phồn tạp...v..v... Nếu càng đi vào chi tiết trong tác phẩm ta còn có rất nhiều điều phải bàn đến về ý niệm Âm-dương này.
2 * Bố cục hình thể
Phần dựng hình tổng quát cho thấy có sự phân bổ đa dạng, hợp lý và chắt lọc có phân lớp theo thứ tự từng khu vực từ cận đến trung và hậu cảnh. Hình họa cảnh quan, sự vật từng phần được mô tả bằng bút pháp vững vàng chuẩn mực không luộm thuộm ngô nghê thừa thãi. Phối cảnh đa chiều tạo được những mảng không gian phù hợp với ý tưởng triết lý tự nguyên không dị biệt. Cấu trúc hình thể có mang tính đặc trưng mới lạ, phát huy được tính chất của từng vật thể.
Hình 04. Bố cục tổng quan hình thể theo lối "Qui-tản" hay chữ "V" lệch hoặc "Bình viễn" và các hình thể được Hs. VanKy Ng. đặt để trên các trục, các điểm mạnh gây ấn tượng cho người thưởng ngoạn.
A - PHẦN TỔNG THỂ:
Với tác phẩm có kích thước khá lớn, lẽ đương nhiên phải phân định ra nhiều mảng, nhiều phần với ý niệm thẩm mỹ, nên khi vào việc nó đòi hỏi người thực hiện phải đầu tư rất nhiều công sức về mọi phương diện như: Ý tưởng, tạo hình, kỹ thuật và bố cục..v.v…. Đó cũng là cách thể hiện tài năng, bản lãnh người họa sĩ.
Theo ý chủ quan, trong tác phẩm này họa sĩ đã dùng dạng thức “Quy-tản”. Có nghĩa là từ một điểm chủ rồi di chuyển hướng tản rộng ra hai biên. Hoặc ngược lại, mọi nơi qui về một mối. (Xem hình 04). Hay cũng có thể cho là bố cục theo lối chữ "V" có đáy lệch về mé phải. Sự phối trí không cân xứng luôn dẫn đến cảm giác sống động linh hoạt, không bị sự đều đặn làm cho khô cứng. Tương tự như tầm nhìn theo qui ước “Bình viễn” trong thể loại vẽ tranh sơn thủy được triển khai theo chiều ngang rộng.
Cách bố trí hình thể tổng quan theo “Qui – Tản” của tác phẩm cho thấy tác giả đã phân chúng ra làm ba mảng. Trái-giữa-phải. Ta thử đi vào chi tiết từng mảng xem như thế nào.
Hình 05. Vùng phân định cho từng phần “Qui” và “Tản”.
Phân thành 03 mảng tổng quát trong tác phẩm.
B - PHÂN CHI TIẾT
1 - Phần Qui ( Mảng giữa):
Đứng trước tác phẩm này. Điểm gần nhất, nơi có lực hấp dẫn mạnh nhất đồng thời cũng là đường dẫn vào bức tranh. Đó là hai thân thụ mộc và khóm tre nổi bật trên giải đất cận cảnh, bên cạnh gốc cây có mấy chú mục đồng đang nhởn nha vui đùa trên lưng trâu. Tất cả những hình ảnh diễn tả sự hòa nhập giữa thiên nhiên với con người đó nằm trọn trong phần “Qui”. Phần rất quan trọng của tác phẩm nên tác giả đã vẽ cho chủ thể có vóc dáng cực lớn chiếm trọn vẹn trục đứng phải và hai điểm vàng B&D theo qui tắc bố cục, khiến cường độ tầm nhìn càng tập trung vào chủ thể một cách mạnh mẽ hơn. Không những thế, chủ thể phụ cũng đươc họa sĩ VanKy Ng. dành một khoảng không gian tương đương lấn sang phía trái vào giữa bức tranh. Cả hai phần chính và phụ chiếm gần hết diện tích bề mặt của hai tấm vóc ở giữa trong tổng thể 04 tấm. (xem hình 04 và 05).
Hình 06. Vay mượn cảnh vật để chuyển tải khái niệm về thời gian đến người thưởng ngoạn (mảng giữa). Bằng hình ảnh cây trơ cành thay lá vào mùa Thu.
Ở phần chủ thể này tác giả lấy thực vật làm mục đích thi thố tài năng và gợi ý chủ đề. Một ý đồ rất rõ của tác giả nên hình thể phần chủ thể có phần to lớn nhất, góc cạnh nhất, rõ ràng hơn những nơi khác (4). Dùng chủ thể để cho thấy bản lĩnh (hai thân thụ mộc và khóm tre), đồng thời mượn nó để gợi, để chuyển tải khái niệm về thời gian. Có thể nói khi nhìn vào cảnh vật cây cối được mô tả, cho thấy tác giả đã dồn hết tâm trí để diễn cảm với một bút pháp rất điêu luyện vi diệu và cơ cấu tạo hình cực kỳ phồn tạp để biểu lộ bản lĩnh và tay nghề của mình. Muốn cho người thưởng ngoạn cảm thụ được rõ ràng thời điểm đặc thù của khí tiết một mùa trong năm. Không gì bằng mô tả sự chuyển biến hình thái của thực vật. Tác giả đã tạo dáng cho các cành cây trơ nhánh không còn lá, nhiều dáng và tầng đầy nhựa sống nhất lọạt vươn lên mạnh mẽ. Hình ảnh cây trơ cành này là muốn nói đến thực vật trong thời kỳ thay lá chứ không phải tình trạng héo khô. Và cũng xin hiểu cho, việc vẽ cây có cành lá xum xuê dễ che đậy những thô vụng, non nớt hơn. Khi dùng thụ mộc trơ thân cành làm chủ thể, vị trí nổi bật của nó sẽ khiến cho mọi người đặc biệt quan tâm,vì thế tác giả phải am tường về dáng cách thực vật, để khi đưa vào tranh việc bố trí chi cành không bị dồn cục, hỗn loạn rối mù trơ trẽn. Nếu chỉ dừng lại ở phần thụ mộc mà không quan tâm đến khóm tre bên cạnh (chủ thể phụ) là một thiếu sót không thể chấp nhận. Để minh họa cho cấu trúc cây tre, tác giả đã thể hiện một thủ thuật mới lạ chưa từng thấy. Với những nhát cào rạch nhanh, mạnh mẽ, chính xác bằng vật sắc bén trực tiếp hằn sâu vào thân vóc, cạo vét đi những phần màu đã vẽ trước, việc này đã để lại những đường nét xước thẳng vút, thanh mảnh, dọc xiên có độ dài ngắn khác nhau đầy uy lực, chúng được phối hợp rất chặt chẽ, đan xen nhau từng phần, từng cụm, thứ lớp xa gần trên dưới, trước sau thật nghiêm cẩn, không hề vấp váp hỗn loạn, cũng không có sự trùng lắp thô thiển dị hợm trông thật rối rắm nhưng rất mạch lạc. Ở dạng thức này nếu không cẩn trọng, không bố cục đường nét khéo léo sẽ cho ra những hình ảnh trông như con cá bị lóc hết thịt chỉ còn trơ xương rất khó coi.
Trong phần Qui này tác giả đã đưa đặc tính của âm dương vào ngay phần chủ thể chính và phụ. Với dương tính là những dáng vẻ thô kệch, khúc khuỷu, to lớn dềnh dàng của hai thân thụ mộc, bên cạnh những đường nét mang nặng âm tính như: mảnh mai, mềm mại, nhỏ nhẹ, nhẹ nhàng của thân tre. Sự khác biệt rõ ràng này đã gây ấn tượng mạnh cho người thưởng lãm ngay từ cái nhìn đầu tiên khi đứng trước tác phẩm. Có chiêm nghiệm mới thấy được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ý tưởng và tay nghề điêu luyện già dặn cùng kỹ năng ứng dụng thuật ngữ đa thức của sơn mài tạo dựng thành một tác phẩm hoàn hảo như thế này cũng không phải lúc nào cũng thực hiện được.
2 - Phần Tản. (Gồm hai mảng phụ bên trái và phải):
Từ phần " qui " không nằm hẳn ở giữa mà lệch hẳn về bên phải tác phẩm, rồi từ đó chuyển hướng tản ra hai mảng phụ bên trái và phải tạo thành một tác phẩm có chiều ngang khá rộng, trong đó mô tả một vùng thôn quê yên bình sung túc.
a / Mảng phụ bên trái.
Bố cục theo hình "zig-zag" hay chữ "chi" trong Hán tự. Theo đó từ mảng ruộng rất lớn nằm ngay mé bên trái liên kết với những thửa ruộng khác nối nhau chạy dài về phía chân trời. Tác giả dùng những con đường bờ ruộng có dạng đan chéo chia cắt những mảng lúa vàng ươm thành nhiều mảnh không đều qua lại từng lớp lớp nối nhau càng xa càng nhỏ dần, tạo hiệu ứng chiều sâu phối cảnh cho sự vật rất có hiệu quả. (xem hình 07).
Hình 07. Mảng phụ bên trái. Bố cục theo dạng "zích- zắc" hay chữ "chi". Theo kiểu thức này tầm nhìn có khuynh hướng bị đẩy qua lại theo mạch xiên chéo trước khi được tản rộng ra hai bên theo chiều ngang ở phần cuối.
Hình 07b. Khu vực thắt và mở. Một bố cục tạo lối thoát vào phần rỗng
của chiều không gian ẩn ở phía sau hai bên rìa làng.
Có một điểm cần đặc biệt lưu ý về cách khai thác chiều không gian rỗng ẩn khuất trong tác phẩm. Một nét sáng tạo, một phát kiến mới rất ít người nắm bắt được để mà khai thác trong hội họa. Ở trong tác phẩm này. Tác giả đã cho hai rìa làng cận cảnh nhất thắt lại, tiếp đến du tầm nhìn của nhàn khách va trực tiếp vào ngay một vệt sáng rất mạnh nằm chặn dưới chân rặng cây có màu rất sậm, song song với đường chân trời không thể vượt qua. Hai đường chắn ngang sáng và tối đã gây sự vướng víu bức bối cho thị giác, bắt buộc tầm mắt phải nương theo vệt sáng hấp dẫn tản về hai bên để tìm sự thoải mái (Xem hình 07b). Việc om tầm nhìn lại rồi cho tản về hai phía! Phải chăng đó là điều tác giả muốn người thưởng lãm năm bắt và để sự tưởng tượng của mình bay bổng với phần rỗng của không gian ẩn khuất ở hai bên phía sau rìa làng.
b/ Mảng phụ bên phải.
Tác giả cố ý đưa phần thân và tàng cây đại thụ lấn sang để tạo trạng thái bất cân bằng (hay còn gọi cân bằng động) cho tổng thể. Vì vậy mà không gian ở mảng phải này có diện tích nhỏ hơn mảng phụ phải. Cảnh quan cánh đồng lúa bát ngát cũng có phần giản lược cho thấy những rải đất, ruộng giăng ngang lập lờ không rõ nối nhau từng lớp hẹp dần, hẹp dần chạy thẳng tuột về cuối trời mà không hề có vật cản, gây ảo tưởng là chiều không gian bị nén lại. Dẫu vậy cánh đồng vẫn không giảm sự ngút ngàn bởi vệt ngang sáng rực cuối trời thu hút tầm mắt, tạo chiều sâu phối cảnh. Hiệu ứng ánh sáng mạnh của đường ngang này mang mục đích vừa nhấn, tách giữa cánh đồng và rặng cây vừa gây cho thị giác người xem có cảm tưởng là phần không gian trước mặt rất sâu, còn đi xa hơn nữa không phải chỉ đến đó là dừng lại bởi vạt trũng nhất ở rặng cây nơi đường chân trời.
Hình 08. Mảng bên phải. Bố cục hình nón.
Tầm nhìn được qui về điểm chóp nón.
Vị trí đặt ở điểm trũng nhất nơi rặng cây cuối trời.
Hình 09. Những đường dẫn đến điểm ảo chóp nón,
nơi vùng trũng nhất của rặng cây cuối trời.
Ở mảng phụ bên phải này được bố cục theo hình nón. Thực thể là tác giả đã tạo ra một mảng trũng nhất ở hàng cây cuối trời làm điểm hội tụ. Rồi bằng những đường dẫn phụ, ép hướng nhìn người thưởng lãm xuôi chiều hai theo cạnh gom về tụ điểm ảo chóp nón.
* Đường dẫn bên trái. Dựa vào tàng cây đưa ra tua tủa, khiến thị giác người xem bị vướng khó chịu. Thuận mắt nhìn chếch qua phải xuôi thẳng về phía chân trời, vô tình rơi ngay vào điểm ảo ở vùng trũng nhất của rặng cây. Cũng là đỉnh chóp nón.
* Đường dẫn bên phải. Tác giả khai thác hình dạng tam cấp làm đường dẫn vào điểm hội tụ ảo nơi vùng trũng nhất của rặng cây cuối trời. Bắt đầu từ điểm cận nhất. Rìa cồn đất có trẻ trâu, băng qua mảng lúa gặp rẻo đất nhỏ màu sậm nổi nhẹ sau thửa ruộng nằm sát cạnh phải tác phẩm, tiếp đến rặng cây có hai mái nhà cách cạnh phải tí chút, vào sâu hơn nữa, nơi có một mái nhà duy nhất thấp thoáng sau rặng cây. Kể từ lớp này cảnh quan mang chiều hướng ngả dần dần vào phía trong băng qua vệt sáng để đến điểm ảo ở vùng trũng nhất của rặng cây. Cũng là đỉnh chóp nón. (Xem hình 08 và 09). Một bố cục hút tầm nhìn về một điểm ở đường chân trời dễ cho ảo tưởng còn xa, xa hơn nữa.
Hình 10. Chi tiết một phần cây đại thụ, khóm tre cùng con người và vật nuôi lung linh dưới nắng sớm qua sự diễn cảm bằng hình họa của Hs. VanKy Ng.
- Sưu tầm -
>>> Tác phẩm "Tĩnh vật với ly bia" của Fernand Leger
>>> Tác phẩm "Mục tiêu bốn mặt" của Jasper Johns
>>> Tác phẩm "Rơm mùa thu" của Jean Francois Millet