Họa tiết trong Mỹ thuật An Nam - Họa tiết hoa, lá, dây lá và quả (Phần 4)
>>> Họa tiết trong Mỹ thuật An Nam (Phần 1)
>>> Họa tiết trong Mỹ thuật An Nam (Phần 2)
>>> Họa tiết trong Mỹ thuật An Nam (Phần 3)
Trong nghệ thuật trang trí của người An Nam, giới thực vật cũng được sử dụng với họa tiết hoa, lá, dây lá và quả.
Lá là họa tiết trang trí đơn giản (hình LXXV, LXXIX), còn dây lá rườm rà và có kích thước rộng hơn (hình LXXXVII). Khi họa tiết chạy viền khổ hẹp theo một khung thì gọi là ‘đằng’ (dây leo) như liên đằng (dây trang trí lá sen), lan đằng (dây trang trí cây lan) (hình LXXIV).
Chỉ thỉnh thoảng mới thấy họa tiết lá mang hình dáng tự nhiên (hình XCIII), còn thường thì đều cách điệu hóa. Khi lá ló ra từ một trung tâm dày mẫm thì gọi là bẹ (hình LXXX, CX, …), loại này thường để trang trí gờ mái nhà hay đôi lúc dùng trang trí đỉnh cột (hình CXV). Ở Bắc kỳ, đỉnh cột hay được trang trí hình bốn con chim phượng ‘cắt đuôi’, hình tượng này không thấy vùng quanh Huế.
Tên các họa tiết hoa lá thật khó xác định, ngay các nghệ sĩ An Nam cũng nhiều khi không biết và họ hay biến đổi hình dáng theo ngẫu hứng. Tuy nhiên cũng có thể giới thiệu một một số như họa tiết “lá lật”, được biến cách thành đầu rồng nhìn chính diện (hình LXXXI, LXXXII, LXXXIII, LXXXIV). Nhưng phần lớn các nghệ sĩ không biết gọi tên họa tiết này là gì, có người gọi là ‘lá’ có người gọi là ‘mặt nạ’ (hình LXXXVI).
Họa tiết thường dùng ở bờ mái nhà và mép đồ gỗ có tên ‘lá đề’, lá chẻ ba thùy và thùy giữa nhọn đầu. Nhưng một số nghệ sĩ Huế lại gọi là ‘vân kiên’ 雲肩 (vai áo hình như cụm mây). Quả là quân lính An nam thời xưa trên vai áo và quanh cổ có miếng vải hình giống như thế. Một số khác lại đặt tên cho nó là ‘tam sơn’三山 (ba ngọn núi) vì ba thùy lá chẻ ra giống như vậy (hình LXXI, LXXII). Ví dụ này cho thấy các nghệ sĩ An Nam không thống nhất thuật ngữ họa tiết, khi thì gọi tên này khi thì gọi tên kia, chủ yếu dựa vào hình dáng họa tiết giống mang mác vật họ từng thấy.
Hoa đã cách điệu cũng khó định danh, khó lòng đặt tên khi ở trên cụm lá quy ước. Một loại mô-típ hoa có thùy rộng nằm giữa họa tiết lá (hình LXXVII. LXXVIII), đôi khi ở ngay những nét đầu tiên của đầu rồng nhìn chính diện, có vẽ là hoa mẫu đơn. Nhưng giữa các nghệ sĩ có nhiều bất đồng tên gọi loại hoa này. Một số gọi đó là ‘bông tây’, một số khác gọi là nụ hoa cách điệu trang trí ở cuối mô-típ hoa hay mô-típ chùm lá. Tên này hay được các nghệ sĩ điêu khắc gọi đùa, có lẽ chịu ảnh hưởng của mô-típ trang trí du nhập từ Pháp qua hồi thế kỷ 18 hay đầu thế kỷ 19.
Họa tiết ‘hoa đào’ (hình XII) chỉ có 4 cánh hơi nhọn ở đầu. Họa tiết ‘hoa mai’ có năm cánh (hình IX, X), đầu cánh bầu tròn. Họa tiết ‘bông bèo’ (giống hình cây bèo ở đầm lầy) có bốn cánh, mép cánh có khía và co rúm giống hoa ở cây họ hoa hồng. Họa tiết ‘hoa chanh’ có tám cánh, trong đó có bốn cánh dài khá thon mảnh và bốn cánh trung gian ngắn hơn (hình II). Họa tiết ‘hoa thị’ do bốn hình tròn cắt nhau, có bốn thùy dài thỉnh thoảng chen vào các cánh trung gian ngắn hơn (hình XIV, XV, III). Họa tiết ‘hoa quỳ’ kết lại từ vành các cánh nhỏ hình tròn.
Chúng ta thấy hoa lá không thuần túy là họa tiết trang trí thôi, chúng còn là những biểu tượng hay điển cố. Một biểu tượng khá quen thuộc là ‘tứ thời’ (bốn mùa) gồm cây mai (mơ) tượng trưng cho mùa xuân, cây sen tượng trưng cho mùa hạ (hình XCV), cây cúc tượng trưng cho mùa thu, và cuối cùng cây tùng tượng trưng cho mùa đông (hình XCVII). Một số người gọi biểu tượng bốn mùa là ‘tứ quý’ gồm cây mai, cây sen, cây cúc và cây trúc (mai liên cúc trúc). Người ta dùng các mô-típ này (lá, hoa và dây lá trang trí trên những tấm ván của đồ gỗ, trên các chi tiết sườn nhà, … Hoa sen chủ yếu đi vào các trang trí Phật giáo. Hoa sen được cách điệu một cách đặc biệt (hình C, CI, CII) gợi lên hình ảnh tòa sen của Đức Phật.
Họa tiết cây cũng thường được biến cách theo truyền thống: nhánh mai hay nhánh đào mô-típ thành ‘phụng’, tùng và trúc thành ‘long’ (hình XCVII), sen thành ‘quy’, cúc thành ‘lân’; loa kèn thành ‘long’. Thế nhưng ngẫu hứng của người nghệ sĩ còn cho phép họ biến cách mọi loài cây thành một con vật huyền thoại có quyền năng thần bí.
Có một loài hoa mà chúng ta chưa nhắc đến: ‘mẫu đơn’. Ở An Nam không có loài hoa này, tên nó dùng chỉ một loài hoa khác mọc hoang trên các ngọn đồi hay đánh trồng trong chậu kiểng; đó là cây ‘đơn’ (ixore?) có hoa hình tán từa tựa hoa mẫu đơn và người ta tin là vậy nên đưa vào điêu khắc và hội họa. Đó là sự nhầm lẫn. Hoa mẫu đơn thường biến cách thành con lân, đôi khi thành chim phụng (hình XCVIII), hay bất kỳ con vật siêu nhiên nào khác.
Nếu người nghệ sĩ giữ đúng truyền thống họa tiết, các loài hoa nói trên dễ thống nhất tên gọi. Nhưng khi do thiếu kiến thức, do sơ xuất hay là do ngẫu hứng, họ pha trộn các mô-típ với nhau thì khó xác định tên. Chẳng hạn có một trang trí dưới chân là một chùm lá cúc bị kéo dài ra, rồi cho thêm vào mấy lá ngắn và tròn hơn của cây mẫu đơn, hai đầu lại có hoa mai (mơ). Trường hợp này lọt vào các nghệ sĩ làm hàng cho người Châu Âu nhưng lại có những ngẫu hứng đáng tiếc như vậy (hình XCV).
Các loại trái cây các tay điêu khắc và hội họa An Nam hay dùng có: lê, đào, phật thủ, lựu, mãng cầu (quả na); hiếm hơn có nho, dưa (gọi là qua) và trái bầu (hình CV, CVI, CVII, CVIII). Quả lê biến cách thành ‘lân’, đào thành ‘quy’, phật thủ thành ‘đầu rồng nhìn chính diện’ (hình CIX), quả na thành ‘phụng’. Theo một số nghệ sĩ, bốn loại quả lê, lựu, đào, na thuộc bộ ‘tứ hữu’ (bốn người bạn).
>>> Họa tiết trong Mỹ thuật An Nam (Phần 5)