Cái Trác tuyệt trong nghệ thuật (Phần 1)
Khi Théodore Géricault bắt đầu những nghiên cứu chuẩn bị cho kiệt tác Cái bè của tàu Medusa, ông đã đi những chặng đường cực đoan và đáng chấn động. Để có thể tái hiện lại đầy đủ thực tế khủng khiếp của những người sống sót trên cái bè rách nát của con tàu bị đắm trong bức họa của mình, Géricault đã mang các bộ phận cơ thể đang thối rữa vào trong xưởng vẽ, và người ta cho rằng ông thậm chí còn cất giữ chúng dưới gầm giường. Ông đi thăm các nhà xác để có thể nhìn thật cận cảnh tác động của cái chết đến cơ thể con người. Đó là phiên bản của cái Trác tuyệt của ông: một thẩm mỹ được thiết kế gây sốc, gây khó chịu, và kinh hoàng.
Vậy Trác Tuyệt, Tuyệt luân, hay Siêu phàm (The Sublime) trong nghệ thuật là gì? Chúng ta cùng tìm hiểu về khái niệm này qua chuỗi bài viết gồm 3 phần.
1. Tổng quan về Cái Trác tuyệt trong Nghệ thuật:
Cảm giác về sự kinh hãi, bàng hoàng, vô tận, và cái bé nhỏ bị xoay vần, và thông qua trải nghiệm về cái trác tuyệt, tuyệt luân, hay siêu phàm, trong tự nhiên, và trong nhiều thế kỷ, được các nghệ sĩ từ Donatello cho đến Bill Viola cố gắng tái hiện trong các bức tranh, tác phẩm điêu khắc, và các trình chiếu video của họ.
Được phát triển thành học thuyết ngay từ thế kỷ 1, cái trác tuyệt ấy đã làm say đắm các nhà văn, triết gia và nghệ sĩ. Thông qua các định nghĩa và cách giải thích khác nhau, trên cơ sở, trác tuyệt là cảm giác bắt nguồn từ mối quan hệ của con người với thế giới, với thiên nhiên và những gì nằm còn vượt lên trên đó mà giúp chúng ta hình thành sự hiểu biết về chính bản thân mình.
Bởi vì trải nghiệm của cái siêu phàm có tính chất tương tác – chúng ta cảm thấy bản thân có liên quan đến thứ gì đó lớn hơn bản thân mình – các nghệ sĩ quan tâm đến sự trác tuyệt sử dụng vô số phương pháp và phương tiện – từ màu sắc và phối cảnh cho đến tính sống động trong cách bố trí và âm thanh – để tạo ra một trải nghiệm thu hút các giác quan của người xem và dẫn dắt họ thưởng thức tác phẩm. Các nghệ sĩ sử dụng cái trác tuyệt không chỉ để bình luận về mối quan hệ của chúng ta với thiên nhiên, mà còn về tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ cũng như các sự kiện đương đại về chiến tranh và bạo lực.
Một cảnh trong tác phẩm Thăng thiên (Ascension) (2000) của Bill Viola trong triển lãm “Tôi không biết tôi là thế nào: Nghệ thuật của Bill Viola” (“I Do Not Know What It Is I Am Like: The Art of Bill Viola), tại Quỹ Barnes.
2. Các ý tưởng và thành tựu chính:
- Những khơi gợi hiện đại về cái trác tuyệt đã bén rễ từ những tác phẩm triết học vào thế kỷ 17 và 18. Để cắt nghĩa những cảm xúc và niềm say mê của con người, các tác giả đã ra sức chất vấn một cách có hệ thống về cội nguồn nơi chúng nảy sinh. Trong đó có ảnh hưởng hơn cả là Immanuel Kant, người đã xác định vị trí của trác tuyệt trong sự bất lực của con người trước việc lĩnh hội cái mênh mông vô trùng đến khiếp đảm, và nhờ đó mà ta tự nhận thức được sự nhỏ bé và giới hạn của mình.
- Trác tuyệt luôn nhen nhóm trong ta cảm thức về sự tồn tại của một thứ gì đó nằm ngoài ta mà ta không tài nào nắm bắt nổi, vì thế mà từ lâu người ta đã liên kết nó với tôn giáo, tâm linh và sự siêu việt. Ngay cả trong những bối cảnh thế tục, trác tuyệt cũng gợi lên cái gì đó đáng kinh ngạc, nhắc cho ta nhớ rằng con người không nhất thiết là trung tâm của vũ trụ.
- Sang thế kỷ 20, các nghệ sĩ bày tỏ niềm hứng thú với sự trác tuyệt thường tìm đến máy móc, công nghệ, cũng như nhà máy công xưởng để tìm kiếm cái phi thường và choáng ngợp. Công nghệ nhân tạo ngày nay trói buộc trí tưởng tượng và kiểm soát phần nhiều cuộc sống của chúng ta. Thứ ban đầu là sự nhiệt thành đón nhận công nghệ như công cụ làm giàu thế giới đã, trong không ít trường hợp, trở thành nỗi sợ hãi trước cái siêu phàm của công nghệ.
- Quá trình chính trị hoá và vật phẩm hóa những cảnh tượng siêu phàm, trác tuyệt đã khiến nhiều học giả gần đây bắt đầu xem xét kĩ hơn về trác tuyệt và mối quan hệ của nó với chủ nghĩa tư bản, cũng như về cách thức trải nghiệm về tự nhiên và công nghệ được bán cho người tiêu dùng. Dù là với du lịch sinh thái hay khung cảnh triển lãm ở một viện bảo tàng, khách hàng ngày càng trả giá cao hơn để mua lấy trải nghiệm trác tuyệt. Cũng có một số thành phần tranh cãi rằng tư bản đã làm ô nhiễm đi cái trải nghiệm ấy và đi ngược lại với tinh thần nguyên thuỷ của sự trác tuyệt.
* Những sự khởi đầu:
Boileau và Longinus – Về cái Trác tuyệt (On the Sublime) (1674)
Khái niệm về trác tuyệt có thể truy dấu xa nhất là giai đoạn Phục Hưng ở Ý. Các tác phẩm của Masaccio và Andrea Mantegna về chủ đề cái chết của Chúa Giêsu, cùng với những bức vẽ và nghiên cứu của Raphael về đầu lâu, đều nhắc nhở rằng ta về sự không thể tránh khỏi của cái chết và cái chưa biết – những chủ đề chính sự trác tuyệt. Họa sĩ kiêm lý thuyết gia Jonathan Richardson đã viết rất nhiều về trác tuyệt và ví dụ về nó bằng Michelangelo và họa sĩ người Ba Rốc Anthony van Dyck trong cuốn Luận về lý thuyết hội họa (An Essay on the Theory of Painting) (1715) của ông.
Tác phẩm Thương khóc Chúa (khoảng 1480) của Andrea Mantegna
Nhưng mãi đến thời kỳ Lãng mạn thì trác tuyệt như một quan niệm thẩm mỹ mới thực sự thống trị châu Âu. Bắt đầu từ bản dịch của tác giả người Pháp Nicolas Boileau – Despréaux vào thế kỷ 17 cho cuốn Về cái trác tuyệt (Peri Hypsous), một tác phẩm phê bình văn học của Longinus, một người Hy Lạp, vào thế kỷ 1 CN.
Trong cuốn sách, Longinus lập luận rằng nhà hùng biện không nên chỉ thuyết phục người nghe mà cần hướng đến cả việc khơi dậy niềm đam mê cũng như lay động cảm xúc của họ. Chủ yếu là quan tâm đến ngôn ngữ, Longinus chỉ viết vắn tắt về sự trác tuyệt nhìn thấy được thể hiện trong cả tự nhiên lẫn các đồ vật do con người tạo ra; ông ước đoán rằng kích thước vĩ đại và sự đa dạng có khả năng mang đến cảm nhận về sự trác tuyệt.
Trong chuyên luận mỹ học của riêng mình, Boileau có viết về sự trác tuyệt: “Trác tuyệt không nói lên một cách chặt chẽ về điều gì đó đã được chứng minh hay phô bày, mà nói về một điều kỳ diệu, nó chiếm lấy ta, khích động ta, và khiến ta cảm nhận được những cảm xúc”.
Chân dung Nicolas Boileau-Despréaux, sinh 1636 - mất 1711 đều tại Pháp
Một nhà thơ và một nhà phê bình. Tên thường gọi là Boileau
Năm 1757, triết gia Edmund Burke đã cho ra đời tác phẩm lớn đầu tiên về cái siêu phàm, trong đây ông tìm cách nghiên cứu một cách khoa học về những đam mê của con người. Là một người theo chủ nghĩa Duy nghiệm trong triết học, Burke đặt nền tảng lý luận của mình là kinh nghiệm cảm quan, ông đi vào nhiều cung bậc cảm xúc, bao gồm cái khoái lạc, cái đẹp và cái trác tuyệt.
Đối với Burke, cảm giác khoái lạc không mạnh bằng cảm giác đau đớn, ông đề xuất rằng trác tuyệt, mà theo ông hiểu là đam mê mạnh mẽ nhất của con người, bắt nguồn từ nỗi sợ hãi, đặc biệt là nỗi kinh hoàng do cái chết mang lại. Burke viết rằng: “Niềm đam mê được khơi dậy từ sự vĩ đại và siêu phàm trong tự nhiên; khi các thế lực ấy họat động mạnh mẽ nhất – là sự kinh ngạc, và sự kinh ngạc là trạng thái của tâm hồn nơi mọi vận động đều đình chỉ, với một mức độ khiếp sợ nào đó.”
Các tác phẩm của Edmund Burk, chính khách, tác giả, nhà hùng biện, nhà lý luận chính trị, và triết gia người Anh – Ireland – đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến nghệ thuật và văn học của kỷ Khai Sáng.
Phê phán năng lực phán đoán (Critique of Judgment) (1790) của Kant:
Tương tự, nhà triết học người Đức Immanuel Kant đã khám phá phản ứng của cá nhân với cái siêu phàm, cho rằng nguồn cội của trải nghiệm đó nằm trong tâm thức con người. Trong cuốn Phê phán năng lực phán đoán của mình, Kant đã đề xuất hai loại trác tuyệt: loại toán học và loại động lực học.
Với loại siêu phàm toán học, con người đối mặt với sự vĩ đại của thiên nhiên, và trí tưởng tượng của anh ta không thể hiểu đầy đủ cái rộng lớn bao la. Tuy nhiên Kant biện luận rằng khi đó năng lực lý trí được kích họat và cho phép ta hiểu được cảm giác về cái vô hạn trước mắt. Vậy nên, cảm giác về cái trác tuyệt toán học xuất hiện khi lý trí của con người vượt trội hơn tự nhiên và trí tưởng tượng của mình.
Trác tuyệt động lực học cũng là cảm giác khi lý trí vượt qua được tự nhiên, nhưng lại thông qua con đường khác. Kant giải thích rằng: “Sức mạnh không cách nào chống chọi lại [của tự nhiên] hẳn là sẽ khiến cho chúng ta, được xem như những sinh vật tự nhiên, nhận thức được sự bất lực về mặt thể chất, nhưng đồng thời, nó cũng tiết lộ khả năng tự đánh giá bản thân mình là không lệ thuộc vào tự nhiên và có một sự vượt trội hơn so với tự nhiên… Nhờ đó mà nhân tính trong ta không bị suy giảm, dẫu cho con người buộc phải phục tùng sự thống trị của tự nhiên.”
Immanuel Kant, sinh 1724 và mất 1804 tại vương quốc Phổ, là một triết gia Đức và một trong những nhà suy tưởng trung tâm của kỷ Khai sáng, với các tác phẩm về tri thức luận, siêu hình học, luân lý học, và mỹ học.
Trong cả hai trải nghiệm trác tuyệt nói trên, Kant đều có viết đến cảm giác “kích động”. Nó lay chuyển tâm hồn, đối lập với cảm giác bình yên nảy sinh từ một tác phẩm về cái đẹp. Sự trác tuyệt cũng gây ra cảm giác không thoả lòng, theo lời giải thích của Kant: “phát sinh từ sự kém cỏi của trí tưởng tượng trong công cuộc ước lượng thẩm mỹ về tầm vóc để đạt đến ước lượng lý trí về nó…”
Những ý niệm của Kant về sự trác tuyệt tuy không được các triết gia chú ý nhiều, nhưng vẫn mang tầm quan trọng đặc biệt đối với lý luận thẩm mỹ và văn học sau này.
- Những nghệ sĩ Lãng mạn của châu Âu:
Theo nhà sử học nghệ thuật Beat Wyss, sự trác tuyệt của Kant, dựa trên mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và phản ứng có lý trí của ta với nó, đã được chuyển hoá sang chủ nghĩa Lãng mạn Đức dưới hình thức “tôn giáo nghệ thuật”.
Từ đây mở ra một kỷ nguyên nơi mà “bản ngã và thế giới chia tách”. Các nghệ sĩ Lãng mạn thường dùng những trải nghiệm của mình với thiên nhiên hoặc sự kiện tự nhiên để truyền đạt trải nghiệm về cái siêu phàm. Caspar David Friedrich, một người đồng hương của Kant, đã thông qua những bức tranh vẽ sương, mây mù, và bóng đêm của mình mà tìm cách nắm bắt trải nghiệm về sự vô tận, tạo ra một cảm giác choáng ngợp về sự trống không.
Người thầy tu bên bờ biển (Der Mönch am Meer) (1808-10) của Caspar David Friedrich
khơi dậy cảm giác choáng ngợp, ngạc nhiên và khiêm nhường
Hình ảnh bóng người đơn độc đứng trước những bầu trời kịch tính và uy quyền của Friedrich đã gây ảnh hưởng sâu rộng, khiến ông trở thành một nhân vật tiêu biểu của hội họa Lãng mạn. Cùng thời gian đó tại Pháp, Eugène Delacroix và Théodore Géricault đã khám phá trác tuyệt thông qua những chủ đề bạo lực và kinh hoàng như tự tử, thảm sát, đắm tàu và xử trảm. Những bức tranh của hai người thường có kích thước to lớn như muốn nuốt lấy người xem, đồng thời còn có sự xuất hiện thường xuyên của nhiều chi tiết hỗn độn đan xen gây choáng ngợp giác quan của khán giả.
- Tranh phong cảnh của Anh và Trường Barbizon Pháp:
Như là những lữ khách tiến vào vùng hoang dã như dãy Alps của Pháp và Thụy Sĩ, vùng núi Snowdonia và các miền tự nhiên khác để trải nghiệm sự trác tuyệt, các họa sĩ phong cảnh của nước Anh cũng đáp lại khao khát với sự hồi hộp và kinh ngạc.
John Constable đã tái hiện lại phong cảnh kỳ vĩ của Anh Quốc, được thiết kế nhằm khơi gợi sự ngạc nhiên và choáng ngợp cho người xem. Trong khi đó, người cùng thời cũng là đối thủ của ông, J.M.W. Turner, đã khắc họa nên những cảnh biển hùng vĩ, quang cảnh sông Thames và những bầu trời diễm lệ, khám phá sự phù du trong nỗ lực của con người khi đối mặt với các thế lực thiên nhiên. Và quả thật, Turner đã được công nhận là một trong những họa sĩ Lãng mạn thành công nhất trong sự nghiệp nắm bắt thẩm mỹ của trác tuyệt theo cách Burke và Kant đã ấn định.
Cơn bão tuyết: Hannibal cùng Đội Quân của ngài băng qua dãy Alps (Snow Storm: Hannibal and his Army Crossing the Alps) (1812) của J.M.W. Turner khắc họa nên sự nhỏ bé yếu ớt của con người khi đối diện với thế lực thiên nhiên áp đảo.
Tại Pháp, các họa sĩ Trường phái Barbizon, mà có bao gồm Jean-Baptiste-Camille Corot, Théodore Rousseau, và Jean-François Millet, đã khám phá một cách tiếp cận ôn hoà hơn. Họ tìm cách truyền tải một cảm giác thanh bình, hay còn gọi là “trác tuyệt thưởng ngoạn” trong tranh phong cảnh. Ở đây, các họa sĩ tìm đến tranh vẽ cảnh thiên nhiên như liều thuốc giải độc cho những bệnh họan của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, hơn là sự suy xét mạnh bạo về tình trạng con người.
- Trường Hudson River:
Lấy cảm hứng từ Turner và những người cùng thời với ông, các họa sĩ như Thomas Moran và Thomas Cole đã tìm thấy sự trác tuyệt tại những vùng đất hoang sơ của Bắc Mĩ, trong đó có thung lũng Yosemite, hẻm Grand Canyon và dãy núi Rocky, rồi sau đó tái hiện lại những cảnh quan ấy trên toan vẽ khổ thật lớn để thể hiện tầm vóc và sự huy hoàng.
Các nghệ sĩ mong muốn vẽ nên những tác phẩm truyền tải được sự kì vĩ, đáng sợ, bao la bát ngát và thần bí có thể trải nghiệm được ở những địa điểm phi thường này mà đa số dân Mỹ chưa có dịp tận mắt chiêm ngưỡng. Nhiều họa sĩ sau này được biết đến dưới cái tên Trường phái Hudson River (được đặt theo những căn nhà họ xây trên sông ở ngoại ô New York) từng làm việc tại toà nhà Studio toạ lạc trên đường West Tenth ở New York, là không gian cho nghệ sĩ kiểu đấy đầu tiên trong thành phố.
Tác phẩm tinh tế Nhìn từ núi Holyoke, Northampton, Massachusetts, sau một cơn giông bão (View from Mount Holyoke, Northampton, Massachusetts, after a Thunderstorm) (1936) – còn được biết đến với cái tên Khúc uốn cong của sông (The Oxbow) – của Thomas Cole đã trở thành kiệt tác trong hội họa phong cảnh Mỹ.
Sau khi chu du khắp đất nước và qua hết các vùng nông thôn, trải nghiệm sự trù phú của cảnh quan nước Mỹ, Albert Bierstadt, Frederic Edwin Church, và sau đó là Asher B. Durand đã khai thác những ý niệm về sự trác tuyệt trong giai đoạn mở mang bờ cõi phía Tây, đồng thời cái nhìn được vẽ ra của họ đã xác định hình hài nước Mỹ trong tâm thức của nhiều công dân bờ Đông.
Vào thập niên 1870 và 1890, các nhiếp ảnh gia tiên phong được chính phủ cùng các công ty tư nhân thuê để chụp lại phong cảnh bờ Tây, bao gồm cả Yosemite và Yellowstone. Những bức ảnh chụp Yosemite của Carleton Watkins đã ảnh hưởng đến quyết định của Quốc hội Hoa Kỳ là biến nó thành một công viên quốc gia. Các nhiếp ảnh gia sau này như Minor White và Ansel Adams đã kế thừa sự nghiệp ghi lại phong cảnh kỳ vĩ, phản ánh được trí tưởng tượng của người dân nước Mỹ.
Piwyac, hay còn gọi là Thác Vernal và Núi Broderick, 92m (Piwyac, or the Vernal Fall and Mt. Broderick, 300 feet) (1861) của Carleton Watkin là một trong những tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên nắm bắt sự trác tuyệt trong thiên nhiên.
* Sự suy tàn của Trác tuyệt:
Đến năm 1886, triết gia Friedrich Nietzsche tuyên bố rằng Trác tuyệt đã “hết thời”, và các họa sĩ thời Victoria cũng quay về với cái đẹp như là nàng thơ của họ. Vào khoảng đầu thế kỷ này, nước Mỹ cũng bắt đầu thay đổi, phải lòng trường phái Ấn tượng của Pháp và chủ nghĩa Hiện đại. Để góp thêm vào sự sụp đổ của trác tuyệt với tư cách là triết lý thẩm mỹ có sức ảnh hưởng – vào thập niên 1930, những ý niệm về trác tuyệt đã bị các chế độ độc tài toàn trị lợi dụng. Đức Quốc xã đã thu nạp tác phẩm của Caspar David Friedrich và biến nó thành tấm gương tiêu biểu cho chủ nghĩa dân tộc của Đức. Kiến trúc sư trưởng của Hitler, Albert Speer, đã cho ra đời Nhà thờ Ánh sáng (Cathedrals of Light).
Do không có sân vận động cụ thể nào nên Speer đã chiếu 152 đèn rọi phòng không vào bầu trời đêm, tạo thành bức tường ánh sáng thẳng đứng bao quanh khán giả của những cuộc diễu hành Nuremberg. Điều này tạo nên hiệu ứng rực rỡ ấn tượng, và được ghi lại trong những thước phim tuyên truyền của Đức Quốc xã. Việc sử dụng trác tuyệt một cách chính trị công khai đã khiến cho các nghệ sĩ sau này thấy miễn cưỡng khi đưa triết lý thẩm mỹ đó vào trong tác phẩm.
Thánh đường Ánh sáng của kiến trúc sư người Đức Albert Speer, được sử dụng tại các cuộc diễu hành Nuremberg
giữa những năm 1934 và 1938, được xem là tác phẩm quan trọng nhất của nghệ sĩ này.
- Thời đại của chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng:
Sau Thế chiến thứ hai, các nghệ sĩ bắt đầu khám phá những cảm giác trác tuyệt về sự siêu việt và sự thăng hoa để phục hồi sau những tàn bạo của chiến tranh. Những người theo chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng ở Bắc Mỹ và nhân vật tiên phong Yves Klein của châu Âu cùng tượng điêu khắc của Alberto Giacometti cùng những vần thơ và tranh vẽ của Henri Michaux đều đã tiếp cận lại với chủ đề này.
Tác phẩm Vô đề của Yves Kleinđược sắp đặt năm 2015 ở bảo tàng Guggenheim, Bilbao
Trong bài luận năm 1948 với tựa đề “Sự trác tuyệt chính là hiện tại” (The Sublime is Now) của mình, Barnett Newman đã tuyên bố từ bỏ niềm hứng thú với cái đẹp của các họa sĩ châu Âu và lập luận rằng nghệ sĩ cần sáng tạo nên những tác phẩm siêu việt có khả năng mang đến một trải nghiệm tâm linh. Ông viết rằng: “Chúng ta đang tái khẳng định khát vọng tự nhiên hướng đến sự thăng hoa thức thần của con người.” Những nghệ sĩ cùng thời là Mark Rothko và Clyfford Still cũng chung một chí hướng, muốn khơi dậy trải nghiệm siêu việt phảng phất sắc màu tôn giáo cho người thưởng tranh.
Nhà sử học nghệ thuật lỗi lạc Robert Rosenblum đã làm xôn xao dư luận khi tạo ra thuật ngữ “trác tuyệt trừu tượng” để chỉ đến hội họa Mỹ thời hiện đại. Ông sử dụng khái niệm này để mô tả cảm giác mênh mang và đơn độc truyền tải qua các tác phẩm thuộc trường phái Biểu hiện Trừu tượng, và liên kết chúng với cội nguồn tổ tiên là ở trong hội họa Lãng mạn. Ông phát triển những ý tưởng này trong cuốn sách có tầm ảnh hưởng của mình là Hội họa Hiện đại và Truyền thống Lãng mạn của phương Bắc: từ Friedrich đến Rothko (Modern Painting and the Northern Romantic Tradition: Friedrich to Rothko) (1975).
Khung cảnh trong bảo tàng Clyfford Still, Denver, Colorado, Mỹ, ngày nay
Cam, Đỏ, Vàng (Orange, Red, Yellow) (bức tranh bên trái) là bức tranh đắt nhất của Mark Rothko,
bán với giá 86,9 triệu $ (trước thuế) tại nhà Christie’s năm 2012
Vào năm 1961, Rosenblum viết rằng: “Trong công cuộc đầy oai dũng kiếm tìm một thần thọai cá nhân để hiện thân cho sức mạnh trác tuyệt của cái siêu nhiên, hội họa dưới bàn tay của Still, Rothko, Pollock và Newman một lần nữa nhắc nhở ta rằng kho tàng kinh hãi của lớp nghệ sĩ Lãng mạn vẫn chưa đến ngày cạn kiệt.”
Cái trác tuyệt là một khái niệm đã xuất hiện trong triết học từ thời La Mã cổ đại, với cuốn Về cái Trác tuyệt của Longinus, được các nghệ sĩ Lãng mạn bắt đầu nghiên cứu và khai thác một cách sâu sắc, toàn diện vào thế kỷ 18.
Chủ đề đó vẫn tiếp tục xuất hiện trong câu chuyện của nghệ thuật – triết học cho tới tận ngày nay và chắc chắn là trong tương lai, với những diễn giải mới cùng cách thể hiện mới. Trác tuyệt đã thay đổi hoặc không thay đổi, như thế nào qua các góc nhìn và các thời đại khác nhau – chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần thứ 2 của chuỗi bài về cái Trác tuyệt trong Nghệ thuật.
3. Khái niệm và Phong cách:
* Tôn giáo và cái Siêu việt:
Cái trác tuyệt và tôn giáo đã được gắn liền với nhau từ thời La Mã, các nhà văn ca ngợi những họa sĩ thời kỳ Phục hưng đã lay động người xem vượt qua một sự tán thưởng thường nhật dành cho các tác phẩm theo chủ đề tôn giáo.
Jonathan Richardson mô tả những tấm thảm dệt ở nhà nguyện Sistine của Raphael là những ví dụ trác tuyệt bậc nhất của nghệ thuật. Ông cũng bày tỏ sự tôn kính đến “Bồ Câu thánh trên Thiên Đường rộng mở cùng vô vàn thiên sứ kính yêu chung vui” trong tác phẩm Sự kiện Truyền Tin cùng các Nhà tiên tri và Thiên sứ xướng ca (The Annunciation with Prophets and Music-making Angels) (1572) của Federico Zuccaro.
Khung cảnh trong nhà nguyện Sistine với những tấm thảm của Raphael (treo dọc hai bên tường)
Sự mênh mông vô bờ bến và nỗi kinh hoàng của tự nhiên được khai thác dưới bàn tay người họa sĩ lãng mạn thường ẩn chứa âm hưởng tôn giáo. Ví dụ như Caspar David Friedrich thường vẽ các thầy tu và những cảnh đám tang, đồng thời lấy cảm hứng rất nhiều trong suy tưởng từ một vị mục sư thuộc Giáo hội Luther.
Hội họa đầu thế kỷ 20 đã mở ra con đường mới cho cái trác tuyệt, thông qua việc các họa sĩ thử sức với sự trừu tượng để mang đến một trải nghiệm về cái siêu việt. Nổi tiếng trong đó là bức Hình vuông đen (Black Square) (1913) được tác giả Kazimir Malevich treo ở một góc phòng trong lần triển lãm đầu tiên. Theo truyền thống, vị trí đó là biểu tượng cho chánh giáo trong một căn nhà người Nga – do vậy, Malevich đã ngụ ý rằng hình vuông đen là một hiện thân của thần thánh. Dù đã bị che giấu suốt nhiều năm, nhưng Hilma af Klint của Thụy Điển đã cho ra đời một kho tàng tác phẩm trừu tượng đồ sộ, mang tên Những bức tranh cho Đền thờ (The Paintings for the Temple). Bà hy vọng những bức vẽ này sẽ mang đến trải nghiệm khai sáng cho những ai chiêm ngưỡng.
Bố cục Tuyệt đỉnh: Trắng chồng Trắng (Suprematist Composition: White on White) (1918) của Kazimir Malevich “cho phép chúng ta nhìn thấy duy nhất bằng cách khiến ta không thể nhìn thấy”, theo lời của Jean – François Lyotard, triết gia người Pháp.
Ba bức Tranh cho Đền thờ của Hilma Af Klint (từ trái qua phải): Nhóm X, số 1, Tranh thờ (Group X, No.1, Altarpiece (Altarbild));
Nhóm X, số 2, Tranh thờ (Group X, No.2, Altarpiece (Altarbild)), Nhóm X, số 3, Tranh thờ (Group X, No.3, Altarpiece (Altarbild))
Sau này, những nghệ sĩ Biểu hiện Trừu tượng đã ra sức khơi dậy cảm xúc tâm linh qua các tác phẩm của mình. Năm 1961, Robert Rosenblum mô tả hình ảnh một người hâm mộ chiêm ngưỡng tranh của Clyfford Still trưng bày tại Bảo tàng nghệ thuật Albright ở New York. “Cứ như một trải nghiệm tôn giáo vậy!” anh ta nói với Rosenblum. Tương tự như thế, những bức tranh Trường màu (Color Field) của Mark Rothko và Barnett Newman cũng hướng đến việc gợi nên một cảm giác mang màu sắc tín ngưỡng trong một thế giới hậu tôn giáo.
- Thiên nhiên:
Thiên nhiên là cảm hứng chủ đạo cho cái trác tuyệt trong hội họa Lãng mạn: bầu trời mù sương, đại dương giông tố, các vực thẳm và thung lũng sâu hun hút, những cảnh núi non đầy kịch tính được tái hiện trên toan cỡ lớn khiến người xem không khỏi choáng ngợp.
Đối với Burke, thế giới tự nhiên là trác tuyệt nhất trong các chủ thể. James Ward đã thông qua bức Gordale Scar (1812 – 1814) để cố gắng truyền tải tính siêu phàm của thiên nhiên. Ông vẽ nên cảnh tượng kì vĩ của những tảng đá vôi cắt ngang phong cảnh hùng vĩ của Yorkshire (ở nước Anh) đối lập với nền trời tối tăm u ám.
Gordale Scar (1812 – 1814) của James Ward khắc họa những vách đá hiểm trở và vòm trời đầy giông tố.
Sự phổ biến ngày càng gia tăng của cái trác tuyệt trong thiên nhiên đã truyền cảm hứng cho Thomas Moran, người đã chu du khắp Đại Tây Dương và chia sẻ những gì ông tích lũy được cùng những người Mỹ đương thời của Trường phái Hudson River, nơi không gian, chiều sâu và sự kịch tính đã trở thành trật tự mỗi ngày.
Ở Pháp, các họa sĩ của Trường phái Barbizon là Jules Dupré (lấy cảm hứng từ Constable) và Théodore Rousseau đã sử dụng thiên nhiên khai thác những chủ đề như sự nhỏ bé vô nghĩa của nhân loại và sự vô thường của cuộc sống. Những ý tưởng này sau đó đã thành nền móng cho chủ nghĩa Ấn tượng.
Chủ đề này tự đưa mình vào thế kỷ 21 khi thiên nhiên biến đổi từ chủ thể thành phương tiện, và miền Tây nước Mỹ, trước kia từng được khắc họa là một biên giới đầy hiểm nguy, nay đã trở thành nơi trưng bày của trào Nghệ thuật Trái Đất (Earth Art). Tác phẩm Phủ định Kép (Double Negative) (1969) của Michael Heizer với hai con mương trải rộng miên man 457m chiều dài, 15m chiều sâu, 9m chiều rộng (lớn đến nỗi có thể nhìn thấy trong những hình ảnh từ vệ tinh của Google Map như những bóng đen) được khắc sâu vào lòng đất, khơi dậy cảm giác kinh ngạc và khiếp sợ nơi người nhìn khiến họ trở nên nhỏ bé.
Đường hầm mặt trời của Nancy Colt
Tương tự như thế, Đường hầm mặt trời (Sun Tunnels) (1973 – 1976) của Nancy Colt đặt tại sa mạc Utah hướng đến mục đích kết nối người xem với vũ trụ bao la, làm bật lên sự nhỏ bé tầm thường của loài người đồng thời lại tôn họ lên đỉnh cao một cách nghịch lý. Tác phẩm bao gồm bốn đường hầm bằng bê tông, được khoan lỗ để tạo nên hình dáng những chòm sao Thiên Long, Anh Tiên, Thiên Cáp và Ma Kết nhằm mang bầu trời xuống mặt đất. Holt nói rằng bà muốn xem xét “nhận thức của con người về không và thời, trời và đất.”
- Nỗi kinh hoàng và Cái chết:
Nghệ thuật trác tuyệt sinh ra là để khiến người ngắm chao đảo, run sợ, nhằm nhắc nhở họ rằng mạng sống của họ mong manh ngắn ngủi ra sao. Burke có viết về một “tính trác tuyệt khiếp đảm” liên quan tới ý niệm về chết chóc, về sự bất lực và về sự hủy diệt. Trong quá trình ấy, cũng như Longinus, ông đã ví nó như đại dương rộng lớn, không thể chế ngự và đầy bí ẩn. Những họa sĩ như Turner và Claude Joseph Vernet đã truyền tải điều này bằng cách khắc họa cảnh đắm tàu, những cảnh tượng thông qua việc chết chìm để đánh thức nỗi sợ trong ta, không chỉ sợ cái chết mà còn sợ thứ ngoài tầm hiểu biết.
Bức Vụ đắm tàu (Le Naufrage) (1772) của Vernet, trưng bày tại Phòng trưng bày Nghệ thuật quốc gia, Washington, Mỹ
Burke liên kết nỗi đau với chết chóc bằng lời giải thích: “Nhìn chung, cái khiến cho nỗi đau càng đau gấp bội, là vì nó được xem như sứ giả của vị chúa tể của mọi kinh hoàng này.” Nỗi kinh hoàng ấy có thể thấy trong những tác phẩm máu me gan ruột của Eugène Delacroix và Théodore Géricault. Truyền thống này cũng được thể hiện xuyên suốt thế kỷ 20 qua những bức tranh Ba Đầu Lâu (The Three Skulls) (1900) của Paul Cezanne, Guernica (1937) của Pablo Picasso và Cô bé mang Mặt Nạ Tử Thần (Girl with Death Mask) (1938) của Frida Kahlo.
Các họa sĩ đương đại đã khai thác sự siêu phàm khiếp đảm trong sự kiện chính trị những năm gần đây, cũng như tác động của chúng lên tâm thức của cá nhân và tập thể. Trong khi đó, nhà phê bình hội họa Thomas McEvilley đã dự đoán rằng một khi bước sang thế kỷ mới, “sự phát triển toàn cầu hoá của tư bản chủ nghĩa tích tụ bao lâu nay sẽ trở thành cái siêu phàm – nỗi khiếp sợ của 50 năm tới.”
Tĩnh vật, ba đầu lâu (khoảng 1900) của Cézanne, thuộc bộ sưu tập của Viện nghệ thuật Detroit
- Công nghệ và Hiện đại:
Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, các nghệ sĩ bắt đầu để ý đến những thay đổi trong ngành tác động lên trải nghiệm của con người ra sao. Tuyến đường thủy New York đã trở thành một chủ đề cho Trường phái Ashcan và các nghệ sĩ như George Bellows, Robert Henri, Reginald Marsh, và Georgia O’Keeffe vẽ nên những cây cầu, cần cẩu và tàu biển chở khách.
Ở châu Âu, sự siêu phàm về công nghệ được khám phá bởi hội nghệ sĩ Chủ nghĩa Vị lai người Ý như Filippo Tommaso Marinetti và Umberto Boccioni, những người đã sử dụng khoa học và cơ học để lay động người xem, bác bỏ truyền thống cũng như quá khứ.
Gần đây hơn, nhà văn hoá sử học David Nye, trong cuốn American Technological Sublime (Trác tuyệt Công nghệ Mỹ) (1994) đã cho rằng niềm ngưỡng mộ sự siêu phàm của thiên nhiên như đã từng trải nghiệm trong những cảnh quan hùng vĩ, đã nhường chỗ cho sự siêu phàm của nhà máy, hàng không, máy móc quân sự và sự siêu phàm của máy tính.
Gần đây hơn nữa, nghệ sĩ Simon Morley đã định vị sự siêu phàm đương đại trong trải nghiệm của cuộc sống hiện đại và mối quan hệ của nó với khoa học, công nghệ khi nó tiến vào vùng chưa biết. Ông liên kết cái kinh ngạc, huyền diệu với cái kinh hoàng, ông viết: “Trải nghiệm trác tuyệt cơ bản là có tính biến đổi về mối quan hệ giữa hỗn loạn và trật tự, những sự gián đoạn của các tọa độ ổn định trong thời gian và không gian. Có thứ gì đó ập đến, chúng ta bị biến đổi một cách sâu sắc.” Trong bối cảnh này, các nghệ sĩ bao gồm Anish Kapoor, Damien Hirst, Bill Viola và Hiroshi Sugimoto xem xét bản thân cùng vai trò của nghệ sĩ trong bối cảnh truyền thông đại chúng tiến bộ, trong quay cuồng và công nghệ phát triển chóng mặt.
Công trình khổng lồ giống như chiếc kèn Giải địa điểm ‘Vị trí I’ (Dismemberment ‘Site I’) (2009) của Anish Kapoor, nằm trong Công viên điêu khắc trang trại Gibbs ở New Zealand, có chiều cao bằng một tòa nhà 8 tầng.
- Chủ nghĩa Hậu hiện đại và Nghệ thuật ý niệm:
Các nghệ sĩ ý niệm đã chơi với quan niệm về nỗi sợ trong một cuộc chất vấn đương đại về cái trác tuyệt. Marsyas (2002) của Anish Kapoor bao gồm các tác phẩm điêu khắc khổng lồ chiếm toàn bộ phòng Turbine tại Tate Modern, cao ngất ngưởng trước người xem như cách mà những giám tuyển giải thích là “xâm ngấm vào không gian vật lý và tâm lý.” Các kết cấu được làm bằng PVC với mục đích trông như da người, giống như những cái miệng khổng lồ, đe dọa nuốt chửng người xem.
Trong khi đó, các nghệ sĩ môi trường như Betty Beaumont và Agnes Denes sử dụng không gian ngoài trời để nhấn mạnh đến những tổn hại mà chúng ta đang gây ra cho trái đất, dẫn đến không chỉ cái chết của một cá nhân mà là cái chết của toàn nhân loại. Mặt khác, những bức ảnh của Andreas Gursky hướng đến sự trác tuyệt toán học của Kant, ông trưng bày những hình ảnh phức tạp và chóng mặt đến mức khiến người xem phải bối rối và cảm thấy choáng ngợp với những góc nhìn lặp đi lặp lại.
99 cent (1999) của Andreas Gursky. Hiện ông là người có nhiều tác phẩm nhất trong nhóm
15 tác phẩm nhiếp ảnh đắt nhất thế giới từng được bán
Cái trác tuyệt luôn được sử dụng như một phương tiện để hiểu (hoặc truyền đạt những điều không nắm bắt được) về các sự kiện trên thế giới và điều đó không khác đi trong bối cảnh đương đại.
Trong bức tranh trừu tượng Sự phân tán (Dispersion)(2002), Julie Mehretu đề cập đến vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Như nghệ sĩ Julian Bell giải thích, “Sự đại kịch tính của cô ấy trong những véc – tơ phi nhào xuống và các tự vị đan lồng vào nhau, với sự phức tạp xuất chúng, kiểu baroque, dường như đã hình dung ra được sự năng động của thời đại này trên một quy mô rất lớn về tổng quát.”
Và Tĩnh vật do Luc Tuymans sáng tác cùng năm đã được trưng bày để phản ứng lại các cuộc tấn công vào Mỹ. Bức tranh miêu tả một đĩa trái cây đặt trong một khổ toan rất lớn, đại diện cho một sự hư vô tuyệt đối và là một tượng đài cho sự bất tương xứng trong cách diễn đạt. Như Simon Morley đã chỉ ra: “Luc Tuymans mang đến cái trác tuyệt để ứng phó lại nỗi kinh hãi quá sức tưởng tượng. Một mức độ bất lực đáng kinh ngạc, đến nỗi không thể diễn tả bằng cả từ ngữ lẫn những bức tranh.”
Nghệ sĩ người Mỹ gốc Ethiopia Julie Mehretu thuyết trình về bức tranh trừu tượng Dispersion (2002)
- Theo Lê Hương Mi (Hương Mi Lê) -
>>> Cấu trúc cơ bản trong mỹ thuật
>>> Các khái niệm cơ sở mỹ thuật
>>> Hình thức xây dựng bố cục trong hội họa