Cách để hiểu bức tranh chân dung của họa sỹ
Trong viện Bảo tàng Thủ đô của New York, có một bức tranh do Veronese vẽ một cậu bé trai với một con chó săn thỏ. Chiếc quần ống túm của cậu bé, có một màu xanh lá cây kỳ lạ, không thể tin được. Một màu xanh đến khó chịu, vì nó đã thường như thế. Bức tranh tự nó đã là một mảng tranh lộng lẫy. Tuy thế, mà nó lại là một bức chân dung, được vẽ bởi một họa sỹ muốn làm hài lòng khách hàng. Ông ta được đặt hàng, ngồi đó và vẽ nguyên si người làm mẫu. Chính một bức tranh như vậy, đã cần nhiều công việc nghệ thuật lớn nhất của thời trước.
Boy with a Greyhound - Sưu tầm
Ngày nay, chúng ta có nhiều họa sỹ giỏi hơn, đến mức chúng ta không biết phải làm gì với họ. Song lại có ít bức chân dung trong thời đại của chúng ta, là những công việc nghệ thuật, có một số ít là có kỹ thuật tàm tạm.
Và có lẽ, sẽ thú vị điều tra xem tại sao nghệ thuật vẽ chân dung ngày nay, lại xuống dốc so với trước đây. Chúng ta sẽ xem xét vấn đề này, từ quan điểm, kỹ thuật và chủ đề chuyên môn của người họa sỹ.
Chủ đề của những người họa sỹ La Mã phương Đông là Thượng đế, các luật lệ và công việc của Người. Chủ đề của những họa sỹ sau này là con người. Những họa sỹ thời Phục Hưng thực ra đã thường bối rối vì những hạn chế của một đối tượng cứ ép họ vẽ chân dung, sao cho trở thành những nhân vật có vai vế cao quý như để thuyết phục con người.
Nhưng… người họa sỹ biết rõ con người. Sự đa dạng, phẩm giá và sự cao quý của con người đã khiến cho đôi mắt của anh ta không thể cưỡng lại được, và những bức tranh của anh ta từ thời Phục Hưng trở về sau đã được nhồi nhét đủ loại hình thức có thể có của loài người.
Như các vị thần là giáo, các giáo sỹ, những chiến binh, những thiên thần, gái điếm, vua chúa, hoàng tử, mệnh phụ phu nhân, kẻ ăn xin, thánh thần và trẻ em, được vẽ với mọi hình thức, có thể có trong một câu chuyện, kinh nghiệm và sự phóng đại.
Tuy nhiên, đối tượng của các họa sỹ chính là những diễn viên, chứ không phải là cảnh mà họ xuất hiện. Các bức tranh thật lớn, các dụng cụ họa sỹ thì cồng kềnh.
Anh ta làm việc chủ yếu là trong nhà, những cảnh phong cảnh và các vật thể kiến trúc, trong các bức tranh được thực hiện đối với hầu hết các phần, sau khi phác họa từ trí nhớ và chỉ có một tầm quan trọng thứ yếu.
Đối với các sáng tác đặc biệt phức tạp, những họa sỹ đôi khi sẽ vẽ những mẫu nhỏ của phong cảnh và vật kiến trúc mà họ sẽ vẽ, thu nhỏ toàn bộ sân khấu, đèn sân khẩu và người là những hình nhân bằng sáp nhỏ.
Để sự rực rỡ và cách bố trí bóng và không gian, sức thuyết phục trong phối cảnh của bức tranh có thể được thực hiện phù hợp. Nhưng ngay cả trong những bức tranh như vậy thì đối tượng của người họa sỹ vẫn là con người. Phong cảnh và vật kiến trúc ở đó, chỉ để giải thích nơi họ sinh sống và tĩnh vật để chỉ ra những gì họ thường dùng và thường mặc.
Với đối tượng như vậy, vấn đề đơn giản nhất của họa sỹ là vẽ một người đơn độc. Một bức tranh chân dung là một công việc dễ dàng nhất mà người họa sỹ thì cồng kềnh, anh ta làm việc chủ yếu là trong nhà.
Những cảnh phong cảnh và các vật thể kiến trúc trong các bức tranh được thực hiện, đối với hầu hết các phần, sau khi phác họa hoặc từ trí nhớ, và chỉ có một lần quan trọng thứ yếu.
Đối với các sáng tác đặc biệt phức tạp, những họa sỹ đôi khi sẽ vẽ những mẫu nhỏ của phong cảnh và vật kiến trúc, mà họ sẽ vẽ thu nhỏ toàn bộ sân khấu, đèn sân khấu, và người là những hình nhân bằng sáp nhỏ, để sự rực rỡ và cách bố trí bóng và không gian, sức thuyết phục trong phối cảnh của bức tranh có thể được thực hiện phù hợp;
Nhưng ngay cả trong những bức tranh như vậy thì đối tượng của người họa sỹ vẫn là con người. Phong cảnh và vật kiến trúc ở đó, chỉ để giải thích nơi họ sinh sống và tĩnh vật để chỉ ra những gì họ thường dùng và thường mặc.
Với đối tượng như vậy, vấn đề đơn giản nhất của người họa sỹ là vẽ một người đơn độc. Một bức tranh chân dung là một công việc dễ dàng nhất mà người họa sỹ có thể được đòi hỏi thực hiện. Và, không như ngày nay, vẽ chân dung vẫn là một nhánh đáng kính trọng của nghề vẽ.
Ngày nay những họa sỹ vẽ chân dung chuyên nghiệp lại ít được coi trọng. Tranh chân dung đã trở thành một nhánh của hội họa thương mại như thuật kiến trúc phong cảnh hoặc trang trí nội thất.
Trong đó, sự thành công tùy thuộc vào nhiều mối quan hệ phong phú và những năng lực xã hội hơn bất kỳ tài năng hội họa đặc biệt nào khác. Nhưng tranh chân dung của người họa sỹ vào thời đó không bị xem thường.
Ghi lại nét riêng của mỗi người là cái mà người ta mong đợi ở người họa sỹ. Vì sự đa dạng của con người là một đề tài thiên nhiên của hội họa nên bất kỳ người nào của bất kỳ tính cách nào đi nữa, cũng có thể được khắc họa và bất cứ ai cũng có thể được vẽ chân dung của mình.
Mỗi một đại gia đình có một phòng tranh cá nhân dành cho những bức hình chân dung, để giảng giải về tầm quan trọng của gia tộc và tiện thể, khắc họa tính cách của mỗi người.
Ví dụ, một phòng tranh có nhiều bức tranh chân dung về trẻ em, thì đó là dấu hiệu của một gia đình mà những người phụ nữ trong đó, có thói quen chỉ huy. Một người mẹ luôn luôn là người tự hào nhất về những đứa con của mình, khi chúng vẫn còn trẻ, xinh đẹp và lệ thuộc.
Và với cách này, nếu bà ta có thể làm được, bà ta sẽ làm cho người ta phải nhớ đến chúng. Cũng vậy, một phòng tranh với những bức chân dung của những người trưởng thành và lớn tuổi, là dấu hiệu của một gia đình giàu tham vọng, ý thức được tầm quan trọng lịch sử trong tầng lớp của mình.
Một thành viên của một gia đình như vậy, sẽ chờ để được vẽ, vì những bức chân dung rất tốn kém, và phải chăm chỉ ngồi làm mẫu, cho đến khi anh ta làm được một điều gì đó đáng để ghi lại. Dĩ nhiên, trừ khi anh ta thừa kế cả một ngai vàng, hoặc tối thiểu cho đến khi anh ta đủ già để phô trương tính cách và triển vọng của anh ta.
Người làm mẫu không cần phải quyến rũ mà cần phải làm cho người khác e sợ. Ngày nay, chúng ta thường ngạc nhiên bởi tính cách hung bạo, không xu nịnh mà các họa sỹ thế kỷ 15, 16 và 17 đã được phép thể hiện, ngay cả đối với những vị hoàng tử uy quyền nhất.
Không thể đếm hết tất cả những bức chân dung đã được vẽ. Những vị vua cho vẽ những bức chân dung của mình để cho thần dân họ biế được dung nhan của họ. Vô số những bức chân dung, tất cả được sao chép từ bức này sang bức kia.
Như những bức tranh của vua Phillip IV của Tây Ban Nha do Velasquez vẽ. đã cho thấy sự trang trí và sự lộng lẫy của các cung điện hoàng gia, và đã được trao tặng như là dấu hiệu của tình bằng hữu và là ân sủng cho những nhà quý tộc và cho những ngôi nhà hoàng gia khác.
Hình chân dung của các công chúa và hoàng tử đến độ tuổi kết hôn được trao đổi như là một sự mở đầu cho một cuộc đính ước (như bức chân dung của Mlle Omorphi trên hộp đựng thuốc lá Casanova đã tiến cử cô ta tới vua Louis XV trong một sự sắp xếp kém trịnh trọng). Những người thân gửi ảnh chân dung của mình đến những người thân khác, cũng như ngày nay chúng ta gửi tặng hình chụp vậy và những phòng tranh chân dung cá nhân nhằm mục đích giữ gìn lịch sử gia tộc và để cho khách khứa thưởng thức cũng giống y như cuốn album các hình chụp theo phép dage vào thời Victorian.
Nếu có ai nhớ rằng, các thợ chụp hình chân dung ngày nay bận rộn như thế nào thì chúng ta không ngạc nhiên khi thấy số lượng những bức tranh chân dung nhiều không kể xiết mà các họa sỹ đã vẽ vào thời trước. Vì vậy, trước khi phát minh ra máy chụp hình, vẽ chân dung là một công việc mà mỗi họa sỹ đều phải làm được. Nhưng mặc dù vẽ chân dung vào thời trước luôn luôn thông dụng, chúng ta cũng không tin các họa sỹ thấy rằng nó dễ dàng. Khi những bức tranh khác được vẽ, nếu không phải là riêng tư thì tối thiểu cũng giữ kín trong đầu.
Chỉ khi nào công việc được hoàn tất thì nó mới được đem ra trước công chúng để mọi người nhận xét nhưng vẽ chân dung hẳn phải làm trước công chúng, đó là sự trình diễn công khai của người họa sỹ.
Ở đây giống như một người ca sỹ trước khán giả hoặc một diễn viên trên sàn diễn, người họa sỹ có ngay một sự trả lời từ phía công chúng đối với bức tranh mà anh ta đã vẽ. Anh ta phải đối phó với ý chí cũng như với người ngồi làm mẫu cho mình.
Bất kỳ loại tranh vẽ nào cũng có cái khó để cho khách hàng cũng chính là người phê bình khó tính nhất của anh ta lại là đề tài cho bức tranh lại càng khó hơn nữa. Kết quả, bức chân dung là sự tập trung tinh thần cao nhất và xác suất nhận được sự thành công lại thấp nhất. Trong đó, những công việc mà người họa sỹ có thể thực hiện. Anh ta không chỉ phải vẽ người làm mẫu mà anh ta còn phải thuyết phục người đó nữa và đồng thời anh ta cũng phải tiếp đón người mẫu đó. Trước đây, điều này dễ dàng hơn, phòng vẽ của họa sỹ là nơi gặp gỡ chung. Những họa sỹ không cảm thấy phiền khi làm việc trước một khán giả. Khi người họa sỹ vẽ, những người bạn và những người khác có thể giúp họa sỹ làm cho người làm mẫu thấy tỉnh táo và được tiếp đãi. Thực ra điều này thực sự còn tồn tại cho đến thời gian rất gần sau này, như đối với bức tranh Fantin Latour vẽ, gọi là Un Atelier Aux Batignolles, phòng vẽ Manet. Trong đó, có một người họa sỹ, trong bộ đồ xã giao của mình được vẽ trong lúc chính ông đang vẽ một bức chân dung khác, bao quanh và không quấy rầy ông ta là một nhóm những họa sỹ và những người có học thức nổi tiếng nhất vào thời đó.
Un Atelier Aux Batignolles - Sưu tầm
Nhưng các họa sỹ của thời đại chúng ta không có những sự giúp đỡ như vậy. Anh ta phải tự mình tiếp đãi người mẫu của mình vì anh ta đã trở nên quen làm việc trong sự kín đáo biệt lập, trong góc phòng của nhà phân tích và với gánh nặng được thêm vào của một bệnh nhân, vào mọi thời gian rảnh là đi hỏi ý kiến bác sỹ.
Với một ít sự tập luyện và kiên nhẫn, tất cả những điều này đều có thể đối phó được. Các họa sỹ mau chóng học được cách trò chuyện huyên thuyên một cách tự động ngay cả khi làm việc căng thẳng nhất. Một số họa sỹ thậm chí đã trở nên thích thú chuyện này, khó khăn thực sự không phải là đây mà khó khăn là một cái gì đó, gắn liền với chính thức bức chân dung. Vì chân dung không giống với bất kỳ loại tranh nào khác. Nó không phải là sự miêu tả đơn giản người làm mẫu, cũng không phải là động tác đơn giản vẽ một con người. Tuy nhiên, nó có thể có được vẻ đẹp, tạo ra một cách tất yếu một bức tranh chân dung.
Thực tế, tranh chân dung có vẻ như tùy thuộc rất ít vào sự cẩn thận hoặc chính xác và thậm chí những họa sỹ chưa được rèn luyện cũng có thể thường xuyên tạo ra những sự giống nhau đáng kinh ngạc. Một bức chân dung, có thể được vẽ đẹp hay xấu và vẫn thành công. Nhưng nếu không thể hiện được sự giống nhau đáng thuyết phục của người mẫu, thì nó không phải là một bức tranh thành công. Nói như vậy, một bức tranh chân dung giống như một bức biếm họa, là bức tranh mà vấn đề đề tài độc nhất của nó chính là một sự giống nhau. Sự giống nhau này dưới bất kỳ khía cạnh nào cũng không phải là hình ảnh hoàn toàn của một người.
Như tranh biếm họa, điều này đạt được bởi việc ngắm kỹ một người từ một quan điểm đặc biệt. Để đạt được điều đó, một tình trạng khác thường của sự đồng cảm với một bản chất bí ẩn và gần như là kỳ diệu phải được tạo ra và duy trì giữa người họa sỹ và người mẫu. Làm thế nào để làm được như vậy thì ngay cả họa sỹ giàu kinh nghiệm nhất cũng chưa chắc đã hiểu. Với một số người mẫu, tình trạng này đến dễ dàng, với một số người khác, thì có thể chẳng tạo ra được tình trạng này một chút nào.
Có khi nó tồn tại ở đó và sau đó vì một lý do không rõ ràng, nó sẽ biến mất, không bao giờ quay trở lại. Nếu nó tồn tại và liên tục tồn tại, bức chân dung sẽ trông giống như người làm mẫu, cho dù nó được vẽ đẹp hay xấu.
Nếu tình trạng đồng cảm này không thể được gợi lên thì bức chân dung cho dù người họa sỹ tài năng đến đâu đi nữa cũng sẽ không giống với người mẫu.
Tình trạng đồng cảm này, sự gần gũi về mặt tâm lý này là cái tạo ra sự khác nhau giữa một bức tranh chân dung và bất kỳ loại tranh vẽ nào khác, tùy thuộc trực tiếp vào khoảng cách vật lý thực tế, khoảng cách tính bằng mét và centimet, giữa người họa sỹ và người làm mẫu. Và một bức tranh chân dung có thể được định nghĩa như một bức tranh được vẽ ở một khoảng cách từ 2 mét đến 3 mét, từ họa sỹ đến người ngồi làm mẫu. Một bức tranh được vẽ từ khoảng cách gần hơn hoặc xa hơn thường là một sự giống nhau dễ nhận thấy. Tuy nhiên, có thể hiếm khi gọi đúng tên một bức tranh chân dung. Phẩm chất đặc trưng của tranh chân dung là một dạng liên lạc khác thường, gần như là một cuộc trò chuyện mà người ngắm tranh có thể thấu hiểu được người vẽ trong đó. Điều này, tùy thuộc vào cái được miêu tả trên vải vào cùng lúc với tâm hồn của người làm mẫu hoặc cái cách anh ta tự cảm nhận về mình, và tính cách của anh ta hoặc vai trò củ anh ta ở thế giới bên ngoài.
Thật là quá khó khăn đối với họa sỹ, để thiết lập nên tính hai mặt như vậy nếu anh ta làm việc gần với người mẫu gần hơn 1,5m hoặc xa hơn 3m hoặc 4m. Điều này không lạ chút nào, cũng giống như lần đầu tiên nó xuất hiện vậy. Một người làm mẫu dù bất kỳ là ai cũng có ba khía cạnh có thể có, tất cả đều khác nhau hoàn toàn. Khía cạnh nào trong ba khía cạnh đó sẽ được người đó thể hiện ra đối với chúng ta, là tùy thuộc trực tiếp vào khoảng cách mà chúng ta đứng nhìn người đó. Đơn vị đo khoảng cách này là đơn vị tự nhiên mà chúng ta sử đụng để đo đạc thế giới bên ngoài, chiều cao của thân thể chính chúng ta. Ở khoảng cách xa hơn 4,5m. Nói cách khác, là xa gấp hai lần hơn chiều cao cơ thể của chính chúng ta, hình dạng con người có thể được nhìn thấy một cách nguyên vẹn như là một tổng thể đơn lẻ. Tại khoảng cách này, chúng ta ở quá xa tầm nhìn nổi của chúng ta để thông tin cho chúng ta một hình khối ba chiều của nhân vật. Chủ yếu chúng ta nhận ra những đường nét bên ngoài và những tỷ lệ của nó. Ở khoảng cách này, chúng ta có thể ngắm một người như thể anh ta là một tấm hình, được cắt ra từ một tấm bìa, và nhìn anh ta một cách hờ hững như một thứ có ít liên quan với chúng ta.
Vì nó chỉ là sự cô đặc và mở rộng theo chiều sâu nên chúng ta nhìn những vật thể ở gần, sẽ gây cho chúng ta một cảm giác thông cảm và tương đồng với những vật mà chúng ta nhìn ngắm. Tại khoảng cách xa gấp hai lần chiều cao, tất cả các hình thể đều có thể được nhìn thấy ngay. Chỉ cần liếc qua là có thể nắm được ngay. Nó có thể được hiểu như một đơn vị và một tổng thể.
Ở khoảng cách này, tư thế của nhân vật, vị trí của nó, thái độ nghiêm trang hoặc thiếu sót của nó, độ chịu lực hút của trái đất lên nó, mối liên hệ của nó với mặt phẳng mà nó đang đứng lên. Nói tóm lại là đặc tính của nó tất cả những cái này hoàn toàn dễ hiểu. Ở khoảng cách này, bất cứ ý nghĩa hoặc cảm xúc nào mà nhân vật có thể truyền đạt đều bị chế ngực, không phải bởi những biểu lộ qua nét mặt mà bởi vì vị trí của các bộ phận thân thể.
Ở khoảng cách này, người họa sỹ có thể ngắm người mẫu của anh ta như thể đó là một cái cây trong phong cảnh hoặc một trái táo tĩnh vật bởi một vài ngẫu nhiên không quan trọng, tình cờ sống động.
Nhiệt tình riêng của người làm mẫu không xáo trộn. Người họa sỹ có thể nhìn người mẫu của mình mà không có bất kỳ sự dính líu cá nhân nào và có thể đưa anh ta lên tranh của mình một cách khách quan đến mức người họa sỹ mong muốn. Chính từ khoảng cách này việc vẽ hình minh họa đã được thực hiện và những người mẫu của họa sỹ vẽ tranh tường, đã được vẽ và họa lại.
Michelangelo và những người nhái tranh của ông, dĩ nhiên, không tuân theo quy luật này. Những nhân vật của họ được vẽ như thể người làm mẫu ở trong khoảng tầm tay với của người người họa sỹ. Nhưng… những bức tranh tường này tại nhà thờ Sistine và vô số những trần nhà của Vasari, của trường phái của ông và những người bạn của ông, nghiêm túc mà nói đã không được vẽ theo kiểu tranh tường chút nào vì chúng không có nền. Nền của chúng được vẽ trên những gờ tường và hốc tường hoặc những đám mây và những vòng hoa đại khái thế. Vẽ tranh tường thực sự, như bức Birth of The Virgin (Sự ra đời của Thần Vệ Nữ) của Ghirlandaio hoặc Procession of The Magi (Đám rước của những Thầy Pháp) của Gozzoli là phải có chiều sâu.
Birth of The Virgin (Sự ra đời của Thần Vệ Nữ) của Ghirlandaio - Sưu tầm
Procession of The Magi (Đám rước của những Thầy Pháp) của Gozzoli - Sưu tầm
Nó có không gian cho những nhân vật của nó để tồn tại và những nền phông phía sau những nhân vật đó. Những nhân vật không nằm sõng soài trên mặt phẳng của bức tường như một tác phẩm chạm nổi thấp. Chúng được đẩy lùi một cách khéo léo vào sâu trong không gian, bức tranh dường như chứa đựng không gian đó. Để đạt được điều này, người họa sỹ phải vẽ những nhân vật của mình như thể anh ta đang đứng, ở một khoảng cách tối thiểu là gấp hai lần chiều cao của những nhân vật đó. Nhưng từ 1,5m đến 3m là khoảng cách của tranh chân dung. Ở khoảng cách này, người họa sỹ đủ gần để mắt của anh ta không gặp khó khăn trong việc nắm bắt những hình dáng ba chiều của người mẫu.
Đồng thời, anh ta lại ở đủ xa để không gặp vấn đề trong việc vẽ rút gọn theo tỷ lệ những hình dạng thể hiện nên người mẫu. Ở đây, tại khoảng cách bình thường của sự thân tình trong giao tiếp và những cuộc trò chuyện thoải mái, linh hồn người làm mẫu bắt đầu xuất hiện.
Vì nó là linh hồn hay đúng hơn là một sự cân bằng chính xác của tâm hồn và tính cách, là những cái hình thành nên chủ thể của tranh chân dung đây hẳn là khoảng cách từ đó bức chân dung đã được vẽ. Gần hơn 1m, trong tầm với, linh hồn rõ ràng là ở quá xa đối với bất kỳ sự quan sát hờ hững nào. Hơn 1m là khoảng cách làm việc của các nhà điêu khắc chứ không phải của một họa sỹ. Nhà điêu khắc phải đứng đủ gần hình mẫu của anh ta để có thể xét đoán những hình dạng qua. Ngoài ra, nhà điêu khắc không phải đối phó với vấn đề luật xa gần (phối cảnh). Những bức tượng không có phông nền và không gặp khó khăn của người họa sỹ là tạo nên một trọng lượng và tầm quan trọng bình đẳng cho những vật thể ở gần và ở xa. Chỉ khi người họa sỹ vẽ tranh tĩnh vật, anh ta mới có thể làm việc gần với mẫu như nhà điêu khắc. Vậy thì, bằng việc giới hạn chiều sâu trong bức tranh và bằng việc mang phông nền phía sau những vật thể tĩnh của mình, anh ta có thể vẽ phông nền như những vật thể khác trong tranh và bỏ qua luật xa gần. Bằng phương cách này, người họa sỹ thỉnh thoảng có thể xem vật thể tĩnh của anh ta như thể chúng là những mẫu vật để điêu khắc và vẽ chúng từ khoảng cách trong tầm với. Nhưng với con người, anh ta không thể xem như vậy được. Ở khoảng cách trong tầm với, những vấn đề của việc vẽ rút gọn theo tỷ lệ tự nó sẽ làm cho công việc vẽ trở nên quá khó. Ở khoảng cách trong tầm với, người họa sỹ phải xử lý những sự méo mó do mắt anh ta quá gần người làm mẫu. Và vấn đề gần như không thể giải quyết được của việc vẽ miêu tả với chi tiết, tính chính xác và sức thuyết phục ngang nhau, sự cận cảnh, hình dạng ba chiều và phông nền bằng phẳng hơn, xa hơn. Hơn nữa, ở khoảng cách trong tầm với, tính cách của người làm mẫu quá mạnh. Ảnh hưởng của người làm mẫu lên họa sỹ quá mạnh mẽ, quá quấy rầy tình trạng cô lập cần thiết của người họa sỹ, khoảng cách trong tầm với không phải là vị trí của sự biểu đạt bằng thị giác mà là của sự phản ứng vận động, của một số biểu hiện tình cảm tự nhiên như những cú đấm hoặc những hành động khác nhau của tình yêu.
Nếu khoảng cách từ chỗ người mẫu đến họa sỹ là quan trọng đối với người họa sỹ thì kích thước mà anh ta vẽ người mẫu cũng quan trọng như vậy. Bất cứ thứ gì chúng ta thấy trong tự nhiên chúng lớn hoặc nhỏ là do khoảng cách của nó. Nhưng vì chúng ta nhìn bằng hai mắt nên chúng ta có thể ước lượng được khoảng cách này và điều chỉnh cho đúng cảm giác của chúng ta về vật thể bằng ước lượng và vì vậy chúng ta đi đến nắm bắt được những kích cỡ thực sự của vật thể. Kích thước của bất kỳ vật thể là cái đầu tiên mà chúng ta bắt buộc phải biết. Tùy thuộc vào kích cỡ của nó, chúng ta biết phải xem xét vật thể như thế nào hoặc nó có thể đối xử với chúng ta ra sao. Bất kỳ vật thể nào được sử dụng bằng tay hoặc có thể hiểu được bằng trí óc hoặc thấu hiểu được bằng cảm xúc thì trước tiên phải được so sánh với một đơn vị đo đạc tự nhiên cơ bản của chúng ta, kích thước của chính một con người.
Bất kỳ cái gì quá lớn hoặc quá nhỏ đều có thể đo được bằng đơn vị đó như khoảng cách từ sao Thiên Lang đến Mặt Trời hoặc kích thước của một phân tử không thể thấu hiểu một cách trực tiếp để hiểu tất cả, trước tiên nó phải được chuyển đổi như dịch từ một ngôn ngữ khác.
Thực tế, sự chuyển đổi này là không thể thực hiện. Năm ánh sáng và micromet đều là những sự giải thích mang tính logic và có thể được tính ra ngay tức khắc một số từ một số khác bằng một phép nhân đơn giản. Cả hai đều không có cái gì chung với đơn vị dặm, không có tính logic chút nào. Chúng ta phải mất bao lâu để đi hết một dặm và chúng ta sẽ cảm thấy mệt như thế nào khi chúng ta đi như vậy. Sự chuyển đổi từ cái rất lớn hoặc cái cực nhỏ sang ngôn ngữ riêng của con người, có thể được thực hiện bằng một cảm giác duy nhất, một sự sợ hãi chán ngán và buồn ngủ.
Trong phạm vi của con người, có một sự dễ hiểu và đa dạng không cùng. Chúng ta biết những vật cụ thể có những kích thước cụ thể. Nếu chúng ta thấy chúng lớn hơn hoặc nhỏ hơn, chúng ta cảm nhận được ngay sự khác nhau. Bất kỷ vật thể nào, một quả trứng hay một cái đầu, nếu được vẽ nhỏ hơn hoặc lớn hơn, chúng ta quen nhìn chúng thì sẽ cho ra một ý nghĩa mới và khác. Nó tùy thuộc vào cách mà đôi mắt chúng ta được điều chỉnh thực tế để tập trung vào bức tranh và cách mà đôi mắt chúng ta nên điều chỉnh để ngắm vật thể, nếu nó ở một khoảng cách mà kích cỡ bất thường của nó thể hiện.
- Theo Nguyễn Minh – Châu Nhiên Khanh (myhocdaicuong.com) –
>>> Một chút khái niệm về tranh chân dung
>>> Các bước dùng sơn dầu để vẽ tranh chân dung
>>> Quy trình vẽ chân dung người thật