Giải phẫu cơ thể loài bò
Bò là tên gọi chung để chỉ các loài động vật trong chi động vật có vú với danh pháp khoa học Bos, bao gồm các dạng bò hoang dã và bò thuần hóa. Chi Bos có thể phân chia thành 4 phân chi là: Bos, Bibos, Novibos, Poephagus, nhưng sự khác biệt giữa chúng vẫn còn gây tranh cãi. Chi này hiện còn 5 loài còn sinh tồn. Tuy nhiên, một số tác giả coi chi này có tới 7 loài do các giống bò thuần hóa cũng được họ coi là những loài riêng.
Bò có một bao tử với 4 ngăn gồm dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách, và dạ túi khế, với dạ cỏ là ngăn lớn nhất. Dạ tổ ong là ngăn nhỏ nhất. Bò đôi khi ăn các vật thể kim loại chúng tích tụ trong dạ tổ ong và việc kích thích từ các vật kim loại gây ra các bệnh phần cứng. Chức năng chính của dạ lách sách là hấp thụ nước và chất dinh dưỡng từ thức ăn có thể tiêu hóa. Dạ múi khế giống như dạ dày người, và đây là lý do tại sao nó được gọi là "bao tử thực sự". Bò là động vật nhai lại nên hệ tiêu hóa của nó cho phép sử dụng các loại thực phẩm khó tiêu hóa bằng cách nhai đi nhai lại thức ăn. Nhai lại cho phép các vi sinh vật đặc biệt trong dạ cỏ tiêu hóa thức ăn.
Thời gian mang thai của bò là 9 tháng. Bò con mới sinh ra năng 25 đến 45 kg (55 đến 99 lb). Bò tơ thường bị lấy thị trước khi đạt đến cân nặng 750 kg (1.650 lb). Bò giống thường sống khoảng 15 năm (thỉnh thoảng đến 25 năm). Bò ghi kỷ lục già nhất sống được 48 năm 1993.
Một quan điểm sai lầm về bò là chúng bị chọc tức giận bằng màu đỏ. Quan điểm này không chính xác vì bò bị mù màu đỏ-lục. Có hai loại thụ màu trong các tế bào hình nón trong võng mạc của chúng, bò có hai màu gốc, cũng như hầu hết các động vật có vú khác bộ linh trưởng khác.