HỌA SĨ VÀ TRANH KHẮC BẢN
Cho tới thời gian gần đây, tranh khắc bản được coi là một phương tiện sao lại các họa phẩm hay hình vẽ và để minh họa sách hơn là một hình thức nghệ thuật riêng biệt. Cho tới cuối thế kỷ 19, một họa sĩ, hoặc người thợ khắc của anh ta, hễ bán được bao nhiêu bản tranh thì cứ in chừng ấy bản. Ngày nay thì không như vậy nữa, những bản tranh in , mà từ đây người ta gọi là bản sao của tranh gốc, cũng được sưu tập như các tác phẩm nghệ thuật vì giá trị của chính nó. Số lượng tranh in ra có hạn, được đánh số và có chữ ký của họa sĩ, sau đó bản vẽ được hủy đi để bảo đảm giá trị thương mại của nhũng bản đã được in ra.
Người ta phân biệt ba loại bản khắc chính, bản khắc nổi, bản khắc lõm và bản in phẳng( được mô tả ở chương sau).Trong bản khắc nổi trên gỗ hay trên vải nhựa, các phần được chừa lại được bôi mực bằng một trục lăn. Ngược lại trong bản khắc lõm thì các rãnh trên bề mặt kim loại hay bị axit ăn mòn sẽ giữ mực. Trong bản in phẳng như in thạch bản, độc bản hay in lụa, hình vẽ được thực hiện bằng khuôn trổ. Mỗi phương pháp có những đặc tính về hình vẽ và kết cấu, và những khả năng diễn đạt riêng. Những kỹ thuật của tranh in cũng như tranh vẽ, trong những thời kỳ nhất định được các nghệ sĩ độc lập làm sống lại và làm định hướng lại theo những đường hướng mới.
Những họa sĩ Châu Âu đầu tiên thực hành việc in tranh thường giao phó việc khắc bản theo một bức tranh gốc cho các nghệ nhân. Nhưng một số các danh sư xưa tự mình cáng đáng công việc đó chọn trong các phương pháp cái nào thích hợp nhất để thể hiện một số tính đặc trưng nhất định trong tác phẩm của họ. Vì vậy những tính chất chính xác trong đường nét có sắc độ nổi bật rõ ràng trong các bức tranh của Durer, Mantegna và Pollaiuolo còn được nhấn mạnh thêm nhờ những đường cứng mạnh và sác bén và những đường gạch nhỏ nét trên các bản khắc kim loại của họ. Rembrandt và Goya có thể hiện một cách tuyệt diệu bầu không khí tranh tối tranh sáng của các bức tranh sơn dầu trong tranh khắc axit mà trạng thái độc sắc của chúng càng làm nổi bật tính chất xúc động. Còn các họa sĩ biểu tượng Đức thì khai thác thớ gỗ để thể hiện tính gây hấn trong bút pháp của họ bằng những đường khắc sâu.
Kỹ thuật in thạch bản cho phép sao lại gần như bất cứ thể loại tranh nào và thể hiện được những kết cấu đa dạng nhất . Đặc biệt, Daumier thăm dò những khả năng của kỹ thuật mới này. Trong các tranh khắc bản của ông người ta thấy lại những tính chất đồ họa và ấn tượng tương phản mạnh mẽ của những bức sơn dầu và màu nước gần như độc sắc cũng của ông. Tranh thạch bản của các họa sĩ biểu tượng trừu tượng như De Kooning và Motherwell cũng giữ được tất cả tính cách dữ dội, mãnh liệt trong tranh sơn của họ. Với một bút pháp khác hẳn, tranh in lụa của Vasarely hay của Bridget Riley tiếp nối truyền thống nghệ thuật đại chúng.
Các họa sĩ thường dùng tranh khắc bản để rèn luyện kỹ thuật hội họa của mình, vì những gò bó do phương pháp này đặt ra đôi khi mở ra những con đường mới. Tranh độc bản, tranh khắc phẳng in một bản duy nhất, đặc biệt đã được dùng làm khởi điểm cho những bức tranh sơn. Thí dụ, William Blake đã vẽ bằng màu thủy noãn lên bản khắc để được những tranh độc bản bề mặt có vân mà ông vẽ thêm bằng mực và màu nước. Nhiều họa sĩ khác đã dùng kỹ thuật tranh độc bản để thí nghiệm màu và toàn sắc trên bức khảo họa lồng dưới kính trong suốt, các lược đồ khác nhau có được như vậy sau đó được in ra và sửa chữa bằng sơn. Degas tô điểm tranh độc bản của mình bằng sơn dầu và màu bột, nhưng cũng giữ vài bản không sửa chữa.
Nếu những bức tranh khắc đầu tiên ở Châu Âu phản ánh khá rõ phong cách hội họa của thời đại đó thì khuynh hướng hiện nay dường như đảo ngược, và chính nghệ thuật hội họa tới lượt nó đang chịu ảnh hưởng của kỹ thuật tranh khắc. Trước đây tranh mộc bản Nhật đã có tiếng vang quan trọng trong tranh của một số họa sĩ ấn tượng như Degas, Whistler và Monet, tronh tranh minh họa của Greenaway, trong bích chương của Toulouse- Lautrec, Bonnard, Vuillard, Steilen và anh em Beggarstaff. Về phần các họa sĩ hiện đại, họ say mê cách dùng song song các phương tiện khác nhau, họ phối hợp trong một bức tranh những kỹ thuật khắc họa khác nhau mà họ còn thêm vào đó cả thuật nhiếp ảnh nữa.
Kỹ thuật tranh khắc bản. Trong kỹ thuật cũng còn được gọi là “ cắt còn chừa “, người ta chạm trổ khắp xung quanh hình vẽ mà chừa lại những phần để sao lại sau đó được bôi mực. Khắc gỗ là phương pháp tranh khắc nổi xưa nhất, thoạt đầu được sử dụng ở Trung Hoa rồi du nhập qua Châu Âu nơi nó phát triển rất mạnh vào thế kỷ 15 với việc phổ biến giấy và việc phát minh kỹ thuật in chữ rời. Người ta dùng gỗ xẻ dọc theo thớ làm bản in , hình vẽ được bôi mực bằng trục lăn và tờ giấy được áp sát bản in và vuốt bằng tay hay được in bằng máy rập. Trong kỹ thuật khắc gỗ, người ta còn dùng một thứ gỗ xẻ xiên rất cứng, như lõi cây hoàng dương, để hình ảnh in ra, có chi tiết tinh xảo. Cuối cùng bản khắc trên vải nhựa ,kỹ thuật khắc nổi thứ ba, có vẻ mềm mại hơn hai thứ kia.
Bản khắc trên gỗ có đặc điểm ở đường nét mạnh mẽ, như chi tiết ở bức Bà Bá Tước trích trong bức Điệu nhảy của thần chết của Holbein cho thấy. Gỗ được chạm trổ bằng lưỡi đục đầu rộng, hình chữ V hay chữ U.
Chi tiết và đường viền của hình ảnh đầu tiên được khắc bằng dao để cho cạnh mép khỏi nứt hay sần sùi ở chỗ nào ngược thớ. Việc in hình ảnh lên gỗ có thể thực hiện bằng cách chà giấy sáp.
Gỗ cứng cho chi tiết tinh xảo hơn, nhưng các nghệ nhân hiện nay thích thớ gỗ mềm hơn.
Tranh khắc gỗ màu Nhật Bản được in bằng nhiều bản vỗ (một bản mỗi màu), phương pháp được gọi là so dấu vì phải đánh dấu vị trí chính xác của các bản vỗ trên tờ tranh. Các bản vỗ đã bôi mực lần lượt đưuọc in lên giấy cây dâu chà xát bằng xơ gai dầu, màu được điểu chỉnh bằng cách thay đổi độ đậm của mực màu và bằng cách ép lên bản vỗ. Bức tranh ba tấm của Kunisada(1857)cho thấy từ phải sang trái, việc chuẩn bị bản vẽ, chuẩn bị giấy, và các bản vẽ.
Bản khắc lõm kỹ thuật này còn được gọi là “ chạm khắc” chủ yếu là dùng một dụng cụ hoặc axit để khắc lõm trên một tấm kim loại những đường và điểm sau đó sẽ chứa mực. Khi bị ép trong máy rập , giấy được thấm ướt trước sẽ hút mực trong các rãnh đó. Những phương pháp trạm khắc trực tiếp trên đồng bằng dao trổ, mũi nhọn và phương pháp khắc đen. Hai kỹ thuật trước là kỹ thuật thể hiện đường nét, kỹ thuật sau làm nổi ấn tượng sắc độ vì bản đồng trước tiên được làm mất nhẵn bóng rồi sau đó được đánh bóng một vài chỗ nhất định để có một phổ sắc độ từ đen tới trắng. Khắc bản bằng axit thì cần có axit và thường được phối hợp với màu nước. Hình vẽ được khắc bằng mũi nhọn trên một lớp véc no phủ tấm kim loại, sẽ bị axit ăn mòn, sâu hay cạn. Bản khắc trên kim loại thường là trên đồng, là việc làm khó khăn cực nhọc, hình ảnh rõ nét có đường nét cứng như chi tiết ở hình khắc con sử tử của Durer cho thấy. Phương pháp khắc đen đòi hỏi một cái nền hoàn toàn được xoi thủng để có được một bề mặt sần sùi chứa mực, hình in sẽ có màu đen mượt bao quanh cái đầu con cọp của Stubb. Phổ màu xám và trắng tương ứng với mỗi phần được đánh bóng nhiều hay ít bằng dụng cụ đánh bóng.
Kỹ thuật khắc axit được thực hiện trên một tấm đồng, kẽm hay nhôm, hai mặt được phủ một lớp véc ni chống sự ăn mòn của axit. Với một mũi nhịn cứng, người thợ khắc vạch khứa vào lớp véc ni theo đường vạch của hình vẽ mà anh ta muốn có. Rồi anh ta nhúng tấm kim loại vào dung dịch axit cho axit ăn mòn những chỗ kim loại bị lộ ra lớp véc ni còn lại, sau đó, được bố đi bằng một chất thuốc tẩy, nhưng người ta có thể làm đi làm lại công việc này bao nhiêu lần tùy ý miễn là tấm kim loại không bị ăn mòn nhiều quá chỉ cần tráng lại lớp véc. Khi in hình, tấm kim loại được bôi mực, tờ giấy đã thấm ướt được áp lên có một lớp nỉ mềm chặt lên rồi được ép mạnh , thế là ta có một tấm ấn hoa hình nổi nhẹ. Phương pháp khắc axit được phối hợp với màu nước aquatinte. Hễ có nhiều màu thì cần có bấy nhiêu bản khắc, thêm một bản nữa cho hình in bằng axit. Màu aquatinte cho phép có ấn tượng hợp sắc phẳng đều màu. Người ta phủ lên bản vỗ một lớp nhựa cây dạng bột , hơ nóng cho các hạt dính lại. A Xit chỉ ăn mòn chỗ chừa trống, làm cho hình in ra có bề mặt lấm tấm và sắc độ mượt mà. Nếu bản vẽ không được khắc bằng a xít, người ta chừa lại những phần dành để trắng bằng một lớp véc ni.
Bản khắc phẳng, phương pháp trực tiếp nhất là phương pháp độc bản, một bản in duy nhất của một hình vẽ bằng mực hay sơn trên mặt không hút nước. Kỹ thuật in thạch bản, phương pháp linh hoạt hơn nhiều, cho phép in ra nhiều bức hình. Cuối cùng kỹ thuật khuôn trổ chủ yếu là tái tạo trên mặt giấy một hình ảnh cắt trên một cái khung che để cho mực thấm qua những phần bị khoét đi. Kỹ thuật in thạch bản cho phép có được tác dụng đa dạng nhất, phương pháp in thạch bản đặt cơ sở trên sự đối kháng giữa nước và các thể béo. Hình vẽ được vạch bằng bút chì mỡ trên đá vôi ( có thể thay bằng tấm kẽm hay nhôm hoặc giả bằng giấy láng). Sau đó hình ảnh được định hình trong một dung dịch keo ấ rập để cho nước bám chặt vào những phần còn nguyên vẹn mà không đụng chạm tới hình vẽ. Trái lại ta sẽ có ảnh ngược khi bôi mực bằng trục lăn. Để thực hiện kỹ thuật thạch bản màu, cần một bản đá riêng cho mỗi màu.
In lụa được thực hiện theo nguyên lý khuôn trổ, giấy hay màn mỏng được đặt sát vào một màn lụa hay vải có mũi dệt nhỏ căng trên một cái khung. Mực được đẩy qua các mũi dệt bằng một cái nạo.
Có thể tạo được những đường mờ và kết cấu có hạt với một bút chì mỡ vẽ trực tiếp lên màn lụa. Sau đó các mắt dệt của màn sẽ được bít lại bằng một dung dịch keo, và chất được dùng cho hình vẽ, sẽ được hòa tan bằng dung môi để cho mực xuyên qua. Người ta cũng có thể vẽ trên màn lụa bằng một thứ sơn có gốc keo, véc ni hay chất tổng hợp, các phần sẽ không hiện hình.