Họa phẩm “Chân dung cô Susanna” (1620-25) của Peter Paul Rubens
Rubens dựng xưởng vẽ ở Antwerp từ 1609. Tới năm 1611 ông đã phải từ chối không nhận thêm học trò trong khi có hàng trăm người xin làm đồ đệ. Chân dung em gái của người vợ thứ hai chưa chắc đã do ông vẽ. Rubens vẽ trên cả ván lẫn vải, dùng mọi thứ bột đa dạng, thường bột phấn nhuyễn được ưa chuộng để vẽ trên gỗ, có lẽ do kỹ thuật vẽ trôi chảy của ông. Vật liệu trên ván gỗ panel này theo truyền thống – phấn trộn với a dao và dầu, nhưng màu là một đổi mới: nâu nhạt và quết bằng nhát bút dài dứt khoát, từng quãng một. Rubens phết một lớp dầu mỏng làm nền. Kết quả là bớt đơn điệu hơn nền đen tuyền, vốn ảnh hưởng Ý. Lối của ông có lợi thế vừa bóng vừa thấy từng sọc, mà phấn trắng vẫn ánh lên.
Không rõ sự chuẩn bị với chi tiết sơn lót trong thời kỳ đầu của trường phái Hà Lan vì thuốc màu lỏng và mỏng. Sơn lót đóng vai trò quyết định trong ảnh hưởng màu, nhất là màu da, mà phương thức cổ truyền bị đảo ngược. Ánh sáng sơn dày và trong mỡ sơn trùng lên, bóng là phần cặn. Hậu quả quang học làm cho bóng như có màu ngọc trai, mát dịu, ánh sáng như ấm lại. Lạnh và ấm làm nổi cảm giác chỉ bằng độ dày mỏng.
Những hiệu quả đó đòi hỏi trình độ bút pháp cao, Rubens được mô tả là vẽ với một lọ nhựa thông để bên mình, chốc chốc lại nhúng cây cọ để làm lỏng sơn. Đây là lần đầu ghi chép về nhựa thông làm chất hòa tan dầu và giải thích tính đa dạng trong bút pháp Rubens. Người đương thời băn khoăn về tính thuần nhất trong sơn dầu. Dầu lanh thường được dùng nhiều nhất, nhưng nhựa cây ít bị ngả màu vàng, dùng vào những màu vàng tế nhị. Dầu nhựa vécni hay quang dầu tỏ ra thích hợp với khí hậu phương Bắc hơn là thuốc pha cồn.
1. Miếng ván nguyên thủy là hai tấm gỗ sồi có thớ dọc.
2. Cây đã được ngâm keo. Phấn trộn với a dao trét đều.
3. Mặt gỗ để cho thấm dầu. Sơn màu nâu quét từng nhát dài, từng đoạn, không đều.
4. Thuốc màu pha với sơn lỏng. Màu vàng, son và nâu.
5. Sơn được quét đều. Bóng tạo bằng cách quét lên trên sơn lót hay phết nhẹ lên vùng tối.
6. Hai tấm gỗ sồi gắn liền, nẹp chắp không sơn lót.
7. Viền quanh khung không sơn chứng tỏ hình đóng khung trước khi vẽ xong.
Đồ hình sau khi ghép xong.
Bức tranh này vẽ trên bốn tấm gỗ sồi ghép lại bởi thợ chuyên môn nơi khác, có đóng dấu sau khung. Đặc điểm của Rubens là thuốc màu từ một điểm trung tâm dường như lan ra chung quanh một cách tự nhiên, tình cờ. Một vân gỗ từ bên phải nền trời hình như rộng thêm… Không cần đến thuốc vẽ, một vân gỗ phía dưới lại làm khuôn mặt sống động thêm. Kỹ thuật Rubens trái với trường phái Hà Lan hồi sơ khai vốn ưa dùng nền thẫm, bỏ những họa tiết và đảo phương thức nửa chừng, từ mỏng sẫm tới dày mà sáng. Ông ta dùng sơn mỏng, lỏng, ít màu mè càng tốt, và chỉ dựa vào nét đa dạng.
Mũ là kiểu thường đội của cả đàn ông lẫn đàn bà hồi năm 1620 trở về sau. Để vẽ chùm lông trên nón, mỗi sợi phẩy bằng một nhát cọ thành thạo.
Quang tuyến X cho biết nét vẽ có thay đổi. Kết hợp của những nhát sơn lỏng mà dài với những nét đậm là tiêu biểu trong phương pháp của Rubens. Màu da được chiếu sáng càng trắng hơn vì tác giả dùng sắc tố trắng của chì để che nền đen.
Chi tiết đúng cỡ: Nhà viết sử Descamps, đồng thời với Rubens, chuyên về nghệ thuật, viết: Màu da Rubens vẽ bằng sơn lỏng, những nhát liền nhau, màu trắng hơi vàng, da mặt đỏ, hơi hồng, bóng màu xanh xám. Chi tiết đúng cỡ, chung quanh mắt có những màu riêng biệt. Dĩ nhiên mắt vẽ giữa xanh và lòng trắng, những quầng chung quanh có độ thẫm khác nhau.
Đường nối của tấm ván thấy rõ, và có nhiều sửa chữa, ngón cái cùng ngón trỏ ở tay trái như lúc đầu, còn ngón cái cảu tay phải lúc đầu cao hơn, tay áo cũng sửa; dùng màu đỏ tương phản với bóng tối, đó là đặc tính của Rubens Hà Lan vào thế kỷ XVII là trung tâm sản xuất sơn khô, tốt. Màu sơn của tay áo quyện với màu đỏ tươi.
>>> Họa phẩm sơn dầu "Trên sông Seine" (1877) của Alfred Sisley
>>> Tác phẩm "Mục tiêu bốn mặt" của Jasper Johns
>>> Họa phẩm sơn dầu "Rơm mùa thu" (1868-74) của Jean Francois Millet