Hình tượng tiên cưỡi rồng trong mỹ thuật Việt
Hình tượng tiên nữ cưỡi rồng xuất hiện trong ba thế kỷ XVI, XVII, XVIII, Nho giáo suy yếu cũng là thời cơ để các lễ tục lề thói thôn quê trỗi dậy. Điêu khắc đình làng cho ta cái cảm nhận tưng bừng hăng say chưa từng có trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Nếu nhìn rộng ra các nước lân bang, cũng là hiện tượng chưa từng có khi mà nghệ thuật tôn giáo đã đến độ chín muồi trở nên sơ cứng, lạnh lùng. Thật trái ngược với hình dung về xã hội xưa, nhất là khi Nho giáo thịnh hành đề cao Công- Dung- Ngôn- Hạnh; mà chung quy bắt người đàn bà sống trong những khuôn khổ cứng nhắc của lễ giáo phong kiến, ta bắt gặp ở đình làng những nụ cười của những cô tiên hồn nhiên mộc mạc. Ở đình Thổ Ngõa (Quốc Oai, Hà Nội) có tấm bia ghi lại chuyện dân làng thắng kiện đòi lại được một phần đất đã mất về làng bên. Thú vị là tấm bia này nàng tiên cưỡi rồng phô trần đôi gò bông đảo. Bia được lập ngày 17 tháng 8 năm Thịnh Đức thứ 5 (1657) ngay sau khi dân làng thắng kiện.
Bia đá kể rằng người xã Sơn Lộ, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai khải bẩm rằng: bị thôn Thổ Ngõa xã Tiên Lữ cưỡng tranh đất bờ ruộng ở xứ Đê Đốt và đất dưới chân núi Mai Lĩnh mà Thừa ty Nha môn của bản phủ nhận tiền rồi xử thiên vị. Sau quan nha phát hiện ra trong sổ địa bạ đã ghi khu đất đó từ xưa đã thuộc về người thôn Thổ Ngõa, nên quan đã xử cho họ thắng kiện. Bia hiện chữ khá mờ, do trước đây có một thời gian không nhận được sự quan tâm nên bia bị lũ trẻ trâu nghịch phá sứt sẹo nhiều. May nhờ có bản rập khá tốt của Viện Viễn Đông Bác cổ xưa nên đã được NCV Bùi Quốc Linh dịch, PGS.TS Đinh Khắc Thuân hiệu đính. Hiện nay dân làng đã có được bản dịch đầy đủ nội dung tấm bia kể lại sự thể kiện tụng năm xưa. Bia đặt phía bên phải của đình, dưới bóng mát của cây đa cổ thụ. Giá như xây được một tòa bia đình cho tấm bia này thì chẳng những việc bảo vệ mưa nắng đã tốt mà còn tô điểm cho cảnh quan tươi đẹp cho ngôi đình cổ này.
Tiên cưỡi rồng trên các bia Thổ Ngõa (Quốc Oai, Hà Nội)
Tiên cưỡi rồng trên các bia Chùa Keo, Nam Định
Cùng niên hiệu Thịnh Đức của tấm bia ở đình Thổ Ngõa, có thể như bức chạm trên trán bia Nam mô A Di Đà Phật, chùa Keo, Nam Định (1670), bia Chiêu Thiền tự, niên hiệu Thịnh Đức thứ 4 (1656), chùa Láng, Hà Nội cũng là những tấm bia trong chùa có hình tiên cưỡi rồng tuyệt đẹp. Ngoài ra, với số lượng đông đảo là trên các mảng chạm khắc trang trí đình làng như ở đình Tây Đằng, đình Thổ Hà, đình Phù Lão, đình Diềm, đình Hạ Hiệp, đình Cao Đài...
Ngoài ra hình tượng này còn xuất hiện ở các đền vua Đinh, vua Lê là nơi tôn nghiêm thờ các bậc tiên đế.
Để có thể hiểu hết ý nghĩa táo bạo, vô tiền khoáng hậu của hình tượng tiên nữ cưỡi rồng thế kỷ XVI, XVII, XVIII, xin được nhắc lại mối quan hệ mật thiết giữa rồng và đế vương. Các triều đại Trung Hoa từ rất sớm đã thâu dụng và độc chiếm hình ảnh rồng, nâng nó lên thành một biểu tượng cho vương quyền tối cao kể từ thời Hán. Thời Đường tiếp theo đã phân định chi tiết trang phục quy định thứ bậc mà theo đó chỉ có hoàng đế mới được sử dụng đồ án rồng. Nhà Tống tiếp tục duy trì truyền thống này. Sang tới nhà Nguyên, việc sùng bái rồng đã đi vào luật pháp. Năm 1270, Hốt Tất Liệt quy định chặt chẽ nghiêm cấm tạo tác, sử dụng đồ án rồng năm móng trong trang phục và đồ gia dụng của bá quan và thường dân. Không ít kẻ bị chết chém vì luật định này.
Tiên cưỡi rồng, chạm khắc đình Cao Đài, thế kỷ 17.
Tiên cưỡi rồng, chạm khắc đình Thắng, thế kỷ 17. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Tiếp đến hai triều đại Minh Thanh, rồng tiếp tục đẩy lên đỉnh điểm. Có một thực tế là hầu như không thể thấy hình ảnh rồng trong dân gian và ngược lại ở nơi cung vua như Tử cấm thành thì rồng xuất hiện mọi nơi mọi chỗ. Nhiều tới mức có cảm giác rồng là đồ án duy nhất được đặc dụng cho không gian vương quyền hoàng gia. Tựu trung có bốn chữ nói lên được mức độ tối thượng của hình tượng rồng: Cao - Đa - Toàn - Lệ. ‘Cao’ là rồng phải là linh vật được chạm khắc tô vẽ nơi cao nhất. ‘Đa’ là nhiều về số lượng, tư thế, dáng vẻ. ‘Toàn’ là thân thể bao giờ cũng được vẽ toàn thân. ‘Lệ’ là tráng lệ thể hiện công phu tài khéo, tinh xảo.
Vụ án Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (TQ) xử chết họa gia Thịnh Trứ khi vẽ bức Thủy mẫu thừa long đồ ở chùa Thiên Giới không phải vì ông vẽ rồng không đúng quy phạm. Minh Thái Tổ nổi giận vì một con rồng với đầy đủ sức mạnh nam tính dữ tợn của nó lại phải chịu dưới sự điều khiển của một người đàn bà - dầu là thủy mẫu. Trong văn hóa Hoa Nam, đặc biệt là vùng Triết Giang (Mân Việt), Thủy mẫu là tín ngưỡng bản địa cổ sơ.
Tiên cưỡi rồng đền Vua Lê, Hoa Lư
Bia ở đình Thổ Ngõa (Quốc Oai, Hà Nội)
Đối chiếu với văn hóa Việt, con rồng không hề cực đoan như vậy. Mặc dù rồng được các bậc đế vương thu lấy về mình. Trong quan niệm của người Việt, rồng là Lạc Long quân là cha của muôn dân. Truyền thuyết Hồng Bàng mở đầu sách Toàn thư đã nói rõ điều này.
Có thể chắc chắn rằng, hình ảnh tiên nữ cưỡi rồng xuất hiện từ thời Bắc Ngụy trong văn hóa Phật giáo Trung Hoa chỉ như một ngôi sao băng chợt lóe lên rồi vụt tắt trong đêm trường phong kiến u ám. Trái lại, hình tượng tiên nữ cưỡi rồng xuất hiện tuy muộn trong mỹ thuật Đại Việt nhưng lại tỏa sáng suốt ba thế kỷ XVI-XVII-XVIII.
Cái chết bi thảm của họa gia Thịnh Trứ phần nào nói lên sự hà khắc của xã hội Trung Hoa - một xã hội với Nho giáo đã đưa vị trí người đàn ông lên vị trí giới thượng đẳng. Ở trên núi Bảo Đỉnh, Đại Túc tỉnh Tứ Xuyên có bức phù điêu Vũ sư thừa long đời Tống. Hình ảnh vũ sư là một ông già râu tóc như mây khá quen thuộc trong văn hóa Trung Hoa. Có thể trên chạm khắc đình làng thủa ban đầu, cưỡi rồng là tiên ông - dạng vũ sư cưỡi rồng cầu mưa như ở đình Thụy Phiêu. Sự suy giảm của vai trò Nho giáo thời Mạc về sau đã đưa vị trí người phụ nữ trở lại không gian thiêng ở đình làng với hình tượng tiên nữ cưỡi rồng.
Trong mỹ thuật người Việt, đặc biệt là mỹ thuật ở làng, con rồng của muôn nhà. Nó là con vật quyền uy nhất, linh thiêng nhất nhưng cũng rất nhân từ. Tiên là mẹ, rồng là cha. Hẳn trong ngày vui thắng kiện, đòi lại được đất đai và danh dự, người dân Thổ Ngõa nghĩ đến ân đức tổ tiên mà hồ hởi tạc lên trán bia hình tiên cưỡi rồng. Thật rộn ràng khúc hoan ca, bà tiên ngực trần, đang ngồi trên lưng rồng, hai tay dang rộng, đang múa điệu múa mà ta chỉ còn thấy trong các vở tiên múa của các phường rối nước. Càng ngắm càng thấy bà tiên này đẹp quá, một vẻ đẹp ngồn ngộn, đẫy đã và phồn thực. Tại sao xiêm áo để đâu mà ngực trần lộ rõ nhũ hoa, gió sao thổi mạnh thế để váy tốc cao lộ cặp đùi dài và căng tròn như thế. Quả là một tấm bia rất giàu giá trị tư liệu lịch sử về điền địa, pháp luật và đặc biệt còn rất độc đáo về mỹ thuật. Quả là một bảo vật trong kho tàng mỹ thuật nước nhà.
Thay cho lời kết
Hình tượng tiên nữ cưỡi rồng chứng tỏ khả năng tiếp biến văn hóa trong quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa với bên ngoài đã tạo nên những sáng tạo bất ngờ, đặc sắc và nhân văn. Những sáng tạo đó chứa đựng tâm hồn và tài năng và khát vọng của người Việt trong cuộc đối thoại với các nền văn minh khác.Những nàng tiên phần nhiều mang dáng vẻ phúc hậu, mộc mạc phảng phất dáng hình của các cô thôn nữ như những ước vọng hạnh phúc giản dị của con người Việt Nam tự ngàn đời nay.
- Trần Hậu Yên Thế -
>>> Hình tượng con Rồng trong mỹ thuật cổ Việt Nam
>>> Họa tiết trong Mỹ thuật An Nam - Họa tiết trang trí hình kỷ hà (Phần 1)