Vẻ đẹp của bức tranh Mona Lisa
Tranh Mona Lisa đã 500 tuổi và giờ đây hầu như cả thế giới
mặc nhiên coi đó là bức tranh đẹp nhất.
Nhưng nếu bỗng có câu hỏi rằng: “Thế nó đẹp ở chỗ nào?” thì chắc gì đã có ai dám đứng ra trả lời đến nơi đến chốn, bởi cái đẹp là tùy mỗi người, nào ai cân-đong-đo-đếm làm gì. Tuy nhiên, trừ những người cùn hoặc cố tình trả lời qua quýt, còn với những thầy dạy môn Lịch sử Mỹ thuật thì đây là chuyện hết sức nghiêm túc và cần có lý giải thỏa đáng.
Nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của họa sỹ đại tài người Ý Leonardo de Vinci (15/04/1452 - 02/05/1519), chúng ta hãy cùng mổ xẻ lý do tại sao bức tranh chân dung với nụ cười huyền bí này lại chinh phục được tâm trí của nhiều người đến thế nhé.
1. Giá trị độc bản
Nếu tác phẩm Văn chương, Âm nhạc, Sân khấu, Điện ảnh có thể in ra, diễn đi, chiếu lại hàng nghìn, hàng vạn lần mà người xem vẫn thấy hài lòng thì với Hội họa không ai dám khoe đã xem phiên bản của một bức tranh. Tất nhiên văn, nhạc, kịch, phim cũng có bản gốc viết tay của tác giả nhưng nếu không in ra hay không trình diễn hoặc trình chiếu thì chắc chẳng ai xem (trừ gián điệp và tòa án). Chỉ có Hội họa (và phần nào đó của Điêu khắc) là ngành nghệ thuật duy nhất có tiêu chí Độc bản (hoặc Nguyên bản). Mọi tranh chép và in, dù đẹp đến đâu chăng nữa, cũng đều bị coi là hạng nghiệp dư và chỉ dùng để tham khảo vì dấu ấn sáng tạo và thực chất đã không còn!
Mặt khác, vẫn theo quy luật tiền-hàng-tiền của tư bản thì ai là chủ sở hữu của bức tranh gốc sẽ giá trị hơn nhiều so với chủ sở hữu của văn bản gốc hay bản nhạc gốc, kịch bản gốc vì tranh gốc chắc chắn là tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, còn văn-nhạc-kịch-phim buộc phải in-diễn-chiếu mới trở thành tác phẩm hoàn chỉnh, mới có công chúng.
Như thế thì bức tranh La Gioconda trong Bảo tàng Louvre là báu vật độc nhất vô nhị. Ai thích thì phải đến tận nơi mà xem tận mắt. Giả sử có bức thứ 2 tương tự thì ai còn trả 4000 đồng tiền vàng hay bảo hiểm 100 triệu USD làm gì nữa? Tiền cực đắt là vì người ta đành cắn răng trả cho báu vật duy nhất ở tầm cỡ thế giới, ở đây có lẽ là bức tranh đẹp nhất.
2. Tranh và nhân vật rất có thần, như muốn tâm tình với khán giả
Tiêu chuẩn số một của tranh chân dung là phải giống, bất kể tác giả của nó theo trường phái nào: Hiện thực, Ấn tượng hay Lập thể… Thế mà tự các họa sĩ đều biết - nếu vẽ chân dung thì đa số sẽ vẽ chỉ nhang nhác là cùng vì chưa đủ trình độ chủ động diễn hình; thiểu số khá hơn sẽ vẽ giống ngoài mặt; chỉ rất ít họa sĩ có thể vẽ không những giống mà còn có thần. Đây là từ chuyên môn của giới mỹ thuật, xin các độc giả tạm hiểu điều đó là nhân vật có nội tâm, có thần thái và cá tính.
Trích đoạn so sánh hai khuôn mặt của tranh gốc (trên)
và bức Islewoth Mona Lisa (dưới)
Cụ thể trong bức La Gioconda thì nhân vật ở thế đối diện với khán giả và dù câm lặng vĩnh viễn thì nàng Mona Lisa vẫn luôn có cái nhìn tươi tắn đầy gợi cảm như muốn đối thoại kiểu tâm tình với người xem. Những ai yêu thích thể loại tranh chân dung đều biết có vô vàn cách biểu hiện mặt mũi trong tranh nhưng cái cách mà nàng Lisa dịu dàng, đằm thắm, đầy nữ tính với cái nhìn tinh tế như thấu tận tâm can của mỗi người xem thì cực hiếm trong thể loại này. Đó chính là cái thần ít khi có được. Ngay cả với họa sĩ lớn cũng chỉ khi nào họ thăng hoa mới có thể xuất thần mà vẽ có thần.
3. Dám chơi kiểu rất khó: vẽ phong cảnh làm nền phía sau
Trích đoạn phong cảnh phía trên, bên phải tranh,
có chiếc cầu rõ ba vòm và vòm thứ tư mờ dần
Đa số các họa sĩ khi vẽ chân dung sẽ chọn nền là bức tường hay phông vải cho đơn giản để tập trung giải quyết mặt (là trọng tâm và khó hơn nhiều). Cái khó là nếu cảnh xấu thì tranh thêm dở mà cảnh đẹp thì sẽ làm mất tập trung vào chân dung. Quả thật, trong suốt chiều dài của Lịch sử Mỹ thuật, rất hiếm họa sĩ cả gan vẽ thêm phong cảnh làm nền cho chân dung mà tranh vẫn thành kiệt tác. Số người thành công kiểu này chỉ đếm trên đầu ngón tay và lại đều xếp sau bậc kỳ tài Leonardo.
Soi vào tranh, ta thấy ông dám liều chơi rất khó: chọn bối cảnh rộng bát ngát với trời mây, núi non, đường mòn, sông suối, cầu cống, cây cỏ… bao la, phức tạp và tinh tế. Tất cả đều đậm hoặc sáng vừa phải, lại có sắc màu ngả lạnh để đẩy ra thật xa và nhường ưu tiên cho nhân vật ở phía trước. Tác giả đã phát minh ra kỹ thuật sfumato, nghĩa là làm mờ- dịu- trong trẻo các ranh giới. Chính kỹ thuật này đã khiến ông vẽ được cả những thứ mà phần lớn các họa sĩ không vẽ được: độ dày của bầu không khí mờ ảo man mác mà người xem cảm giác được từ sau lưng nhân vật đến tận núi non đằng xa. Về điểm này thì một số họa sĩ ta có vẽ cảnh làm nền cho chân dung nhưng hoặc là họ nhằm hiệu quả khác, hoặc họ chỉ đạt hiệu quả như phông nền vẽ giả trong tiệm ảnh để chụp kiểu đánh lừa mắt: cảnh phẳng lừ, bẹp dí, không có thứ tự lớp lang, không có độ dày không khí giữa nhân vật và phong cảnh.
4. Tranh tạo ra được tới 3 ảo giác
Dù ta muốn tin hay không thì cũng phải thừa nhận: tranh không hấp dẫn số đông đến vậy nếu không có những yếu tố ma mị mà ở đây là các ảo giác.
Nụ cười bí ẩn là ảo giác thứ nhất:
Đa số khán giả bị hấp dẫn bởi ảo giác này. Thực ra không có gì gọi là quá cao siêu khi tác giả chọn nụ cười mỉm - là khởi đầu của hành động cười nên ta càng nhìn thì hành động có vẻ như càng tiếp diễn và tất nhiên càng cuốn hút. Đây là phương án lựa chọn tối ưu trong mỹ thuật khi mô tả hành động, có từ thời Hy Lạp cổ đại.
Khác với các ngành nghệ thuật khác, mỹ thuật không diễn tả được một quá trình nên nó buộc phải chọn thời điểm. Thoạt tiên người ta chọn cao trào của hành động nhưng đa số thất bại vì quá khó khi nhân vật phải giang tay, vung chân, há mồm hết cỡ, trông rất phản cảm. Tai hại hơn nữa, thời điểm cao trào gây cảm giác sắp kết thúc nên xem càng lâu càng thấy hẫng hụt. Vì lẽ đó mà Hy Lạp cổ đại đã làm tượng Lực sĩ ném đĩa ở thời điểm lấy đà tối đa, khiến người xem có cảm giác thấy lò xo nén hết cỡ, chỉ tích tắc nữa là bung ra, chiếc đĩa sẽ vụt bay đi. Cái tài của cụ Vinci là không chỉ vẽ miệng cười mà mắt cũng cười và toàn thân toát lên vẻ tươi tắn. Mặt khác, nụ cười mỉm duyên thầm hơn và hợp với nữ tính hơn.
Đôi mắt luôn dõi theo từng khán giả, bất kể họ ở vị trí nào trước mặt là ảo giác thứ hai:
Chúng tôi từng chứng kiến khá nhiều người khi vào xem Mona Lisa đã vội vàng chạy sang phải, dạt sang trái, công kênh nhau lên cao rồi nằm mọp sát đất, mắt vẫn không rời tranh. Hóa ra họ muốn kiểm chứng về đôi mắt nhân vật luôn chăm chú nhìn từng khán giả, bất kể họ đứng hay nằm ở đâu, miễn là trước mặt nàng. Kết quả đúng như vậy, với bất kỳ ai. Về cơ bản thì cách làm này không khó: chỉ cần vẽ hai lòng đen chính giữa đôi mắt nhìn thẳng thì đều tạo ra ảo giác tương tự. Tuy nhiên oái oăm ở chỗ nhân vật của Leonardo lại đang liếc về một bên, vậy mà nếu ta né sang bên kia thì nàng vẫn dõi theo ta không kém phần chăm chú. Có giả thiết cho rằng vì một trong hai mắt của nhân vật đã được đặt đúng vị trí trên đường trục dọc chia đôi tranh. Kể ra cũng khó loại trừ nhưng chẳng mấy thuyết phục. Và đây lại thêm một bí ẩn hấp dẫn nữa của tranh.
Có hai đường chân trời hơi vênh nhau ở hai bên là ảo giác thứ ba:
Khán giả xem tranh sẽ thấy ngay chân trời bên phải, không thăng bằng mà hơi chếch. Chân trời bên trái thì ẩn nhưng bằng kinh nghiệm chuyên môn, các họa sĩ sẽ cảm giác được nó ở vị trí thăng bằng hơn. Thật khó khớp hai đường vì mối nối sẽ bị vênh. Tất nhiên trong nghệ thuật thì 2+2 chưa chắc đã bằng 4, nghĩa là đúng hay sai không phải là điều quan trọng nhất. Mặt khác, danh họa kiêm nhà khoa học như Leonardo chắc không kém đến độ vẽ sai đường chân trời. Chỉ có thể hiểu là ông đã cố tình. Và chính hai đường vênh nhau này lại tạo ra ảo giác khiến phong cảnh có vẻ sống động hơn, thoát được vẻ chết lặng, đồng thời nhân vật cũng có vẻ nhúc nhích đôi chút, đỡ ngay đơ như tượng. Vậy là ảo giác thứ ba giúp tăng phần sinh động cho tranh.
Sau 5 thế kỷ, chỉ với bức tranh nhỏ này, vinh quang của tác giả đã lên tới tột đỉnh. Đây là bức tranh đắt giá nhất, được bảo vệ kỹ lưỡng nhất và đông người xem nhất thế giới. Thị phi càng nhiều thì lại càng như thêu dệt thêm cho Mona Lisa trở thành huyền thoại.
Tranh góp phần tạo ra nguồn du lịch lớn lao cho nước Pháp và gián tiếp làm ra lợi nhuận không kém gì một nhà máy loại lớn nhất. Về mặt chuyên môn, danh họa Leonardo da Vinci để lại cho hậu thế một số bài học kỹ thuật kỳ diệu như hiệu quả và độ bền 5 thế kỷ của chất sơn tự chế, sự đột phá khi dám tả cảnh thiên nhiên làm nền cho chân dung, quái chiêu tạo ra các ảo giác… và trên hết, các khán giả đến xem tranh mà không biết rằng: ngược lại, chính họ luôn bị nhân vật nhìn như thấu vào tâm can bằng một cái nhìn lúc nào cũng dịu dàng, đằm thắm.
>>> Bí mật tài "vẽ tranh tuyệt đỉnh" của Leonardo da Vinci