Nghệ thuật Trang trí Bìa sách chữ Quốc ngữ
giai đoạn 1882 – 1954 ở Việt Nam
Tóm tắt: Trang trí bìa sách là một lĩnh vực quan trọng trong hoạt động xuất bản ở Việt Nam, gắn liền với sự phát triển của công nghệ và chất liệu in ấn. Bài viết trình bày khái quát những đặc điểm nghệ thuật qua quá trình chuyển đổi về kỹ thuật in ấn, cách trình bày nội dung cũng như thẩm mỹ trong trang trí minh họa bìa sách chữ quốc ngữ giai đoạn 1882 - 1954. Sự chuyển đổi về nghệ thuật trang trí bìa sách Việt Nam giai đoạn 1882 - 1954 cũng đồng thời ghi nhận bước phát triển, hoàn thiện chữ Quốc ngữ trong văn hóa dân tộc.
Trên thế giới khi nói về nghệ thuật trình bày sách, các nhà chuyên môn tùy theo trường hợp cụ thể mà dùng các thuật ngữ book design (thiết kế sách), book cover design (thiết kế bìa sách). Ở Việt Nam, hiện nay cụm từ thiết kế minh họa sách (bìa sách) hay được sử dụng để chỉ công việc này. Theo cách hiểu được đa số chấp nhận thì trường hợp dùng từ design (thiết kế) hay được gắn liền với các công cụ trợ giúp như máy tính, công nghệ phần mềm. Còn ở Việt Nam việc thiết kế, trình bày các đối tượng tạo hình trên bìa sách thường được gọi là trang trí bìa sách, bởi trước kia công việc này thường gắn liền với các thao tác thủ công hoặc bán thủ công. Để đảm bảo chính xác trong cách diễn đạt, khi nói về nghệ thuật trình bày bìa ấn phẩm xuất bản từ năm 1954 trở về trước ở Việt Nam, chúng tôi sử dụng thuật ngữ Trang trí bìa sách. Còn khi nói về lĩnh vực ngành nghề, thuật ngữ thiết kế (bìa) sách hay thiết kế minh họa (bìa) sách sẽ được sử dụng cho phù hợp với cách gọi chung phổ biến hiện nay. Thiết kế bìa sách là một phần quan trọng thuộc ngành Thiết kế đồ họa. Qua khảo cứu, cho thấy tư liệu viết về mảng đề tài này khá khiêm tốn, có chăng là những ghi chép tản mạn, không đầy đủ trong những công trình nghiên cứu của một vài học giả đi trước, viết về một vấn đề, sự kiện nào đó rồi nhắc tới như một thông tin phụ có liên quan mà thôi. Với mục đích tiếp cận, khơi mở một mảng nghiên cứu còn ít được quan tâm, trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu về trang trí minh họa bìa sách chữ Quốc ngữ giai đoạn 1882 - 1954 ở Việt Nam. Chữ Quốc ngữ mà chúng ta hiện đang sử dụng là chữ ghi âm tiếng Việt dựa trên ký tự La tinh. Đây là loại chữ được các giáo sĩ Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa, Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes, Christop Borri... cộng tác với nhiều người Việt như Gesico Văn Tín, Bento Thiện... tạo ra vào khoảng những năm 1620 - 1659 để nhằm mục đích dễ dàng truyền bá đạo Ki tô. Suốt hai thế kỷ, từ năm 1651 đến năm 1861, do triều đình phong kiến nhà Nguyễn thi hành chính sách cấm đạo, bị nghi kỵ là văn tự của người ngoại quốc và giới trí thức Nho học bỏ qua, chữ viết này chìm vào vòng bí mật, chỉ phát triển trong nội bộ các xứ đạo và nhà thờ Thiên Chúa giáo. Cùng thời gian, chữ Quốc ngữ dần được hoàn thiện và khi xuất hiện lần đầu trên tờ Gia Định báo vào năm 1865 thì các ký tự cũng như hệ thống ngữ pháp của nó đã tiến gần sát với chữ viết chúng ta sử dụng ngày nay.
Nhận thấy sự tiện lợi của chữ Quốc ngữ, chính quyền thực dân Pháp đã buộc người Việt ở Nam Kỳ phải dùng văn tự này thay cho chữ Hán trước khi áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Trong nghị định “về việc dùng tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin” (6 - 4 - 1878) do thống đốc Nam kỳ Louis Charles Georges Jules Lafont (1824 - 1908) ký, có ghi rõ: Kể từ mồng một Tháng Giêng năm 1882, tất cả văn kiện chánh thức, nghị định, quyết định, lịnh, án tòa, chỉ thị... sẽ viết, ký tên và công bố bằng chữ quốc ngữ; nhân viên nào không thể viết thơ từ bằng chữ quốc ngữ sẽ không được bổ nhậm và thăng thưởng trong ngạch phủ, huện và tổng... Sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên nhiều phương diện. Từ chỗ là loại chữ viết dùng trong nội bộ một tôn giáo, nó đã được dùng như chữ viết của một nền văn hóa Kỹ thuật in do người phương Tây mang đến cùng việc hình thành các xưởng ấn loát hiện đại đã lấn lướt hoàn toàn lối in mộc bản thủ công kiểu truyền thống, tác động và làm thay đổi sâu sắc diện mạo của nghề in nước ta cũng như các lĩnh vực liên quan. Thời điểm này đánh dấu một khởi đầu mới: Sự ra đời của nghệ thuật trang trí minh họa bìa sách chữ Quốc ngữ ở Việt Nam. Do chữ Hán và chữ Quốc ngữ khác nhau cơ bản về cấu tạo, một bên thuộc thể loại tượng hình, một bên là ký tự ghi âm. Vì vậy, việc chuyển từ Hán tự sang chữ Quốc ngữ đã làm thay đổi tâm lý và kinh nghiệm cảm thụ thị giác về chữ trong xã hội. Trước đây, ở những bìa sách Hán Nôm người ta có thói quen nhìn chữ và các thông tin khác theo chiều dọc từ trên xuống dưới, còn bây giờ lại xem theo lối phiên ngang từ trái sang phải. Cách đọc và sắp xếp ký tự mới đã thay đổi hoàn toàn tư duy trong nghệ thuật trình bày bìa sách, từ bố cục chính dựa theo trục dọc chuyển sang lấy trục ngang làm chủ đạo. Ngoài ra, việc cảm nhận vẻ đẹp của thư pháp từ các nét móc, sổ, ngoặc, hất, chấm... được tạo bởi vệt bút lông đến nay đã được thay thế bằng các giá trị thẩm mỹ mới. Người ta phải làm quen với những chữ cái rời rạc sắp cạnh nhau cùng hệ thống dấu mũ, ngữ pháp hoàn toàn lạ lẫm được in bằng công nghệ typo. Vào buổi giao thời, có những bìa sách được trình bày bằng cả hai văn tự. Phần chữ Hán được in khắc gỗ, phần chữ Quốc ngữ được in bằng kỹ thuật in typo. Chỉ nhìn bìa thôi cũng đã cảm nhận được những biến động phức tạp, những giằng co cũ mới trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Bìa sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca.
Kết hợp chữ Hán và chữ Quốc ngữ.
Nhà in Phát Toàn Sài Gòn (1909)
Những cuốn sách bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên được in và xuất bản ở nước ta đều do người Pháp chỉ đạo phát hành nên hình thức bìa những ấn phẩm này đều ảnh hưởng của thiết kế phương Tây. Đi sâu vào nghiên cứu, phân tích các bìa sách giai đoạn 1882 - 1954, có thể nhận thấy bìa chỉ giống về mặt hình thức bố cục, còn chữ, dấu, minh họa trong một số trường hợp đã được các họa sĩ Việt Nam chủ động sáng tạo làm cho nghệ thuật chữ và hình ảnh trên bìa sách đa dạng phong phú chứ không bị rập theo khuôn mẫu như thời kỳ sử dụng Hán tự trước đây.
Hình ảnh bìa Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du.
Nhà in Ngày nay ấn hành (1942)
Do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan của xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, nên dù đã tiếp cận được với kỹ thuật in mới hiện đại từ khá sớm nhưng “ngành xuất bản” của ta vẫn không thể thay thế hoàn toàn, triệt để lối in khắc mộc bản thủ công truyền thống. Chính vì thế trong khoảng thời gian từ 1882 - 1954 ở Việt Nam, đã sử dụng song song kỹ thuật “in khắc gỗ xen kẽ in typo”. Cách kết hợp trong in ấn này phải nói là bất đắc dĩ trong hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ. Nhưng về cảm nhận, nó lại tạo nên vẻ khác biệt “nửa công nghiệp, nửa thủ công” cho ấn phẩm so với các giai đoạn khác. Chính vì kết hợp hai kiểu in “cũ, mới”, nên nghệ thuật trang trí minh họa trên bìa ấn phẩm giai đoạn 1882 - 1954 khá phong phú và đa dạng về thể loại, không theo một khuôn mẫu nhất định nào, nhưng nhìn chung về kỹ thuật có thể chia làm ba nhóm chính:
Nhóm thứ nhất, bìa được in bằng kỹ thuật in mộc bản.
Nhóm thứ hai, bìa kết hợp kỹ thuật in mộc bản và in typo.
Nhóm thứ ba, bìa sách chỉ sử dụng kỹ thuật in typo.
Ở nhóm một, sau khi các họa sĩ hoàn thành việc vẽ minh họa và mẫu chữ, bìa sẽ được mang đi khắc, in bản gỗ ở các phường thợ hoặc các cơ sở vẫn duy trì kỹ thuật in truyền thống rồi hợp quyển với các trang sách được in bằng kỹ thuật Typo. Loại bìa này có nhược điểm là chất lượng in quá kém, lem nhem và không rõ nét đối với những chữkích thước nhỏ như địa chỉ, nhà xuất bản... Để khắc phục, về sau những thông tin trên được in bằng chữ đúc chì có sẵn, còn tên sách thì vẫn dùng phương pháp cũ là khắc gỗ. Do các kiểu chữ in hoa đúc sẵn dùng để in tên sách còn hiếm, nên các họa sĩ có thể tự do sáng tác kiểu chữ mà mình thích. Với đặc điểm như thế, nghệ thuật chữ trên bìa sách (in khắc gỗ) của thời kỳ này chủ yếu hướng tới sự đơn giản. Các kiểu chữ phần lớn là do các họa sĩ tựnghĩ ra. Đã có nhiều họa sĩ nổi tiếng tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tham gia vẽ minh họa sách. Điển hình là cuốn Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du do Hội Quảng Trị (Huế) xuất bản năm 1942, in tại nhà in Ngày nay, địa chỉ 80 phố Quán Thánh, Hà Nội. Trong cuốn sách, minh họa bìa và tiêu đề là do họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung vẽ cùng với 11 họa bản khác của các họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tường Lân, Tô NgọcVân, Trần Văn Cẩn, Phạm Hậu, Lê Văn Đệ, Tôn Thất Đào, Nguyễn Văn Tỵ, Lưu Văn Sìn. Những tờ minh họa và bìa sách nói trên được in mộc bản riêng tại Hàn Thuyên Ấn quán, địa chỉ 53 phố Tiên-Tsin (Hàng Gà), Hà Nội. Vấn đề hay gặp phải của những bìa in khắc gỗ là sự thống nhất trong phong cách chữ và vị trí bỏ dấu, mũ, râu... Vì vậy trên nhiều ấn phẩm ta thấy chữ còn chưa hợp lý và thuận mắt. Nguyên nhân do thời kỳ này chữ Quốc ngữ đang ở giai đoạn tìm tòi, chưa định hình những quy chuẩn thẩm mỹ về kiểu dáng như hiện nay. Ngoài ra sự hạn chế về phương thức kỹ thuật thể hiện cũng là một vấn đề khiến cho chất lượng bản in bị mờ, không sắc nét... Tuy nhiên, khách quan mà nói nhiều bìa sách đã đạt được độ thẩm mỹ cao, kiểu dáng chữ trông lạ, cá tính; Chữ và hình minh họa hợp lý, hài hòa trong tổng thể bố cục bìa.
Nhóm thứ hai, là nhóm kết hợp cả hai kỹ thuật in. Phần tên sách sử dụng các kiểu chữ đúc chì có sẵn được in bằng công nghệ Typo. Phần minh họa thìin mộc bản. Trong thời kỳ này, do số lượng kiểu chữ in không nhiều nên chữ trên bìa chủ yếu chỉ đề truyền tải thông tin là chính. Vì thế, tính biểu cảm qua kiểu dáng chữ của bìa đôi lúc không ăn nhập gì với phần minh họa và nội dung ở bên trong. Nhiều khi bộ chữ nhập không đáp ứng được yêu cầu về ký tự như thiếu nét gạch ngang, thiếu dấu... nên các nhà in phải tự làm và bổ sung thêm chi tiết. Đôi lúc để tránh nhàm chán, các họa sĩ cũng tự sáng tác một vài chữ cái (thường là chữ đầu tiên của tên sách), phần còn lại thì để nguyên kiểu chữ gốc.
Bìa sách Đường xa chi mấy. Nxb Nguyễn Đình Vượng, Sài Gòn (1960)
Do khó khăn trong việc tiếp cận hình ảnh của nhóm sách này, nên chúng tôi đành phải lấy cuốn Đường xa chi mấy xuất bản năm 1958 (sau mốc thời gian nghiên cứu 1954 bốn năm) làm ví dụ. Quan sát trên bìa ấn phẩm, có thể thấy chữ LAN - DÌNH (LAN - ĐÌNH) là chữ in nhưng nhà xuất bản do chưa chế tác được dấu gạch ngang của chữ Đ nên đành phải dùng chữ D nguyên gốc trong bộ chữ nhập từ nước ngoài.
Bìa sách Hội Phủ Giầy. Nhà in Mỹ Thắng (1942)
Vì thế mà tên tác giả không chính xác! Trong khi đó với phông (font) chữ ở dưới chữ Đ (Đường) đã được làm thêm dấu gạch ngang. Nhược điểm của việc tự chế thêm dấu vào khuôn chữ có sẵn là đôi khi giữa các chữ và dấu không ăn nhập lắm về phong cách. Việc này kéo dài đến cả mấy chục năm sau. Họa sĩ Nguyễn Viết Châu, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về chữ vào những năm 70 của thế kỷ trước cũng đã xác nhận: “Chữ in trước đây được nhập từ ngoài vào, các loại chữlớn đó là của các bộ chữ La-tinh nên thiếu dấu khi dùng ta phải thêm vào”. Thậm chí vào thời điểm ấy ông còn mơ ước: “Tương lai khi ta có nhà đúc chữ Quốc ngữ thì nhất định các chữ Ư và Ơ đều đúc sẵn”. Cuối cùng là nhóm bìa được ấn bản bằng kỹ thuật in Typo. Qua khảo sát, hầu hết nhóm bìa này không có minh họa mà chỉ dùng toàn chữ. Những chữ này rất ngay ngắn, rõ ràng và sắc xảo với cả những chi tiết nhỏ. Được như vậy là do các nhà xuất bản sử dụng những con chữ chì đúc sẵn chuyên để in tên sách. Tuy nhiên có một nhược điểm rất dễ nhận thấy ở kiểu bìa này là những bộ chữ được làm sẵn không đa dạng về kích thước. Vì thế lúc áp dụng trên bìa sách rất khó chủ động về bố cục. Đôi khi nó làm bố cục bị dư, tạo ra các khoảng trống ngoài ý muốn. Để khắc phục, một số nhà xuất bản đã chủ động đưa thêm thông tin lên bìa nhằm lấp bớt những khoảng trống này. Kết quả mang lại về thẩm mỹ thì chưa thấy nhưng hậu quả rõ nhất là bộ mặt ấn phẩm nhìn không đẹp, khô khan thiếu cảm xúc do sử dụng quá nhiều kiểu chữ. Ngoài ra cũng cần nói đến phong cách minh họa khá đa dạng và phong phú trên bìa của sách giai đoạn 1882 - 1954. Nếu trước kia trên bìa sách Hán Nôm, các hình mây, rồng, hoa văn, họa tiết cổ là chủ đạo thì giai đoạn này đã xuất hiện các hình ảnh của đời sống hiện đại như thiếu nữ, phong cảnh, nhà cửa, ô tô, vật dụng... với lối tạo hình của hội họa phương Tây. Nguyên nhân của sự thay đổi như trên là do một số bìa ấn phẩm đã được các họa sỹ ở Trường Mỹ thuật Đông Dương và những người có nghề trực tiếp tham gia minh họa. Với các kiến thức học được ở trong trường, họ đã thổi một làn gió mới vào phong cách tạo hìncũng như chủ đề hình ảnh trên bìa sách. Nghệ thuật trang trí bìa sách giai đoạn 1882 - 1954 là dấu ấn rõ ràng của sự thay đổi về kỹ thuật in, từ in khắc mộc bản truyền thống chuyển sang in bằng chữ đúc chì. Trong lúc giao thời đã xuất hiện các ấn phẩm được in kết hợp. Ở giai đoạn này, chữ và minh họa trên bìa sách nước ta rẽ hẳn sang hướng gần với thiết kế hiện đại của phương Tây. Có thể nói đây là bước ngoặt quan trọng của nghệ thuật trang trí bìa sách Việt Nam. Mốc dấu này đã đưa ngành xuất bản nước ta thoát khỏi cái bóng của “nghề sách” Trung Hoa. Nếu trước đây hình thức trang trí bìa của Trung Hoa được coi là khuôn vàng thước ngọc, thì bây giờ với chữ Quốc ngữ các họa sỹ đã có được cảm hứng mới, tư duy mới để tìm tòi, thể hiện và sáng tạo. Giai đoạn 1882 - 1954 là giai đoạn lịch sử Việt Nam có nhiều biến động làm ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống văn hóa xã hội trong đó có lĩnh vực trang trí minh họa sách. Tuy nhiên, bên cạnh những hạn chế và lạc hậu các họa sỹ Việt Nam cũng đã tự tìm cho mình một con đường phù hợp và khẳng định được nét riêng. Nhìn nhận một cách khách quan thì đây chính là giai đoạn bản lề góp phần định hình phong cách thiết kế minh họa bìa sách chữ Quốc ngữ của Việt Nam, tạo tiền đề cho sự phát triển và thành công trong những giai đoạn tiếp theo của lĩnh vực này.
- Bùi Quang Tiến -